Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa.

 
Kios Nguyễn Huệ

Tiến trình một bé gái hóa bà lão 60 tuổi chỉ trong 5 phút

Video về một bé gái biến thành phụ nữ 60 tuổi khiến nhiều người xem phải kinh ngạc.
Video ngắn mang tên “Danielle”, được dàn dựng bởi đạo diễn và biên tập phim Anthony Cerniello, nhằm mục đích diễn tả sự thay đổi của cơ thể con người từ khi còn trẻ đến lúc già, sự mù lòa và cả cái chết. 
gia1-4445-1379264483.jpg
Nhân vật trong clip hóa thành bà lão 60 tuổi. Ảnh: ibtimes.
Tác giả Cerniello cho biết, tác phẩm lấy nguồn cảm hứng từ người bạn Danielle và những bức hình chụp cô em họ của bà. Video mở đầu với hình ảnh một bé gái người châu Á nhìn chằm chằm vào màn hình camera, chỉ thỉnh thoảng chớp mắt.
Đoạn phim chạy theo liền mạch thời gian, người xem chứng kiến những sự biến đổi trên khuôn mặt của một phụ nữ từ khi còn trẻ đến lúc về già. Khuôn mặt dần dần dài thêm, cấu trúc xương được định hình rõ nét, những nếp nhăn xuất hiện và cuối cùng là màu tóc trở nên bạc dần. Tập trung liên tục vào hình ảnh, người xem vẫn khó có thể nhìn ra được những sự thay đổi rõ nét trong tiến trình biến đổi ấy.
Video trên đã tạo nên một ‘cơn sốt” trong cộng đồng mạng và nhận được hơn 100.000 lượt chia sẻ. "Thật là một đoạn phim đáng kinh ngạc”, một cư dân mạng phát biểu sau khi xem. Người khác cho biết: “Tôi ý thức được quá trình tiến tới cái chết như thế nào. Đây đúng là một video tuyệt vời”.
Chia sẻ trên trang ibtimes, tác giả Cerniello cho biết, ông nảy ra ý tưởng làm video này khi tham gia buổi họp mặt gia đình cùng người bạn Danielle và nhiếp ảnh gia Keith Sirchio. Cả hai đã chụp lại những bức hình chân dung của những người họ hàng nữ của Danielle ở nhiều độ tuổi khác nhau. Sau đó, họ xem xét tỉ mỉ từng bức ảnh và tìm kiếm những điểm tương đồng về cấu trúc xương để tạo ra một chuỗi lão hóa liên tục. Tiếp đó, họa sĩ Nathan Meier và Edmund Earle kết nối những bức hình với nhau, thêm vào đó những cử động của nét mặt và cổ. 
George Cuddly, chuyên gia về hiệu ứng 3D, đã hoàn tất đoạn video bằng việc làm “mịn” những sự khác biệt trong màu mắt, màu tóc và da. Cuối cùng, nó được chạy trên nền một nhạc phẩm của Mark Revely. 
“Tôi vẫn luôn suy nghĩ rất nhiều về cái chết, nó mang đến sự sợ hãi và hoảng loạn cho nhiều người, và tôi muốn khám phá nó. Đó là cách tôi làm việc trong suốt cuộc đời của mình, tôi cố gắng tạo ra một người để mô phỏng lại quá trình lão hóa", Cerniello cho biết.
Mỹ Hạnh

Những phim gây thất vọng nhất mùa hè 2013

Được nhiều kỳ vọng nhưng dàn diễn viên nổi tiếng, kinh phí lớn cũng không giúp ‘After Earth’, ‘The Lone Ranger’ hay ‘White House Down’ có được thành công.
1. After Earth
Kinh phí: 130 triệu USD
Doanh thu: 243,6 triệu USD

after-earth-7503-1379210298.jpg
Will Smith là ngôi sao hạng A ở Hollywood với những bom tấn như loạt phim Men in BlackIndependence Day. Nhưng After Earth, bộ phim có sự xuất hiện của con trai anh Jaden Smith là một “quả bom xịt”. Tác phẩm giả tưởng này chỉ thu được 243,6 triệu USD tiền vé trên toàn thế giới trong khi kinh phí thực hiện lên tới 130 triệu USD, chưa kể chi phí phát hành và quảng cáo.
2. White House Down
Kinh phí: 150 triệu USD
Doanh thu: 134,6 triệu USD
white-house-down-8031-1379210298.jpg
Channing Tatum là một trong những nam diễn viên thăng tiến nhanh nhất tại Hollywood trong vài năm gần đây với nhiều bộ phim ăn khách như The Vow hay Magic Mike. Nhiều người kì vọng sự có mặt của anh và Jamie Foxx sẽ giúp White House Down bùng nổ tại các phòng chiếu. Tuy nhiên, bộ phim hành động này chỉ đạt doanh thu mở màn là 24,8 triệu USD và tổng doanh thu là 134,6 triệu USD, chưa bằng kinh phí làm phim.
3. R.E.D. 2
Kinh phí: 84 triệu USD
Doanh thu: 104,9 triệu USD
red-2-5561-1379210298.jpg
Phần đầu tiên của R.E.D. rất thành công về doanh thu với 200 triệu USD tiền vé, gấp gần bốn lần chi phí làm phim. Con số này có được một phần là nhờ sự tham gia của những tên tuổi lớn như Helen Mirren, John Malkovich và Bruce Willis. Trong phần hai, tất cả đều trở lại với vai diễn của mình cùng những cái tên mới đình đám không kém là Catherine Zeta-Jones, Anthony Hopkins và Lee Byung-Hun.
Tuy nhiên, những cái tên sáng giá này không mang lại thành công cho R.E.D. 2. Tác phẩm hành động hài chỉ đứng thứ năm trên bảng xếp hạng phim ăn khách nhất Bắc Mỹ trong tuần đầu tiên ra mắt với số tiền là 18,5 triệu USD. Đến nay, R.E.D. 2 cũng chỉ đạt tổng doanh thu là 104,9 triệu USD, trong khi kinh phí làm phim là 84 triệu USD, chưa kể chi phí phát hành và quảng cáo.
4. The Big Wedding
Kinh phí: 32 triệu USD
Doanh thu: 21,8 triệu USD
the-big-wedding-9368-1379210299.jpg
The Big Wedding cũng có dàn diễn viên tên tuổi là Robert De Niro, Katherine Heigl, Diane Keaton, Amanda Seyfried, Topher Grace, Susan Sarandon và Robin Williams. Với những cái tên này, bộ phim dường như sẽ thắng lớn tại các phòng vé. Nhưng mọi chuyện lại diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Tính đến nay, tác phẩm hài này mới chỉ thu về cho hãng Lionsgate 21,8 triệu USD, thấp hơn nhiều với con số 32 triệu USD mà hãng này bỏ ra để làm phim.
5. R.I.P.D.
Kinh phí: 130 triệu USD
Doanh thu: 61,7 triệu USD
r-i-p-d-1814-1379210299.jpg
Kinh phí lớn, lại được chuyển thể từ bộ truyện tranh và có bộ đôi diễn viên Jeff Bridges và Ryan Reynolds tài năng nhưng R.I.P.D. là một nỗi thất vọng lớn. Bộ phim này khiến hãng Universal lỗ nặng khi chỉ thu về 61,7 triệu USD tiền vé trong khi kinh phí làm phim lên tới 130 triệu USD.
6. Tyler Perry Presents Peeples
Kinh phí: 15 triệu USD
Doanh thu: 9,1 triệu USD
peeples-4155-1379210299.jpg
Các phim của Tyler Perry, đặc biệt là loạt phim Madea, thường có doanh thu phòng vé khá tốt. Nhưng việc gắn tên mình vào tên phim không giúp cho tác phẩm của nhà sản xuất kiêm đạo diễn này trở nên ăn khách hơn. Tyler Perry Presents Peeples là một trái đắng đối với nhà làm phim 44 tuổi này với mức doanh thu thấp nhất trong sự nghiệp của ông.
7. The Internship
Kinh phí: 58 triệu USD
Doanh thu: 78,5 triệu USD
the-internship-8827-1379210299.jpg
Năm 2005, Vince Vaughn và Owen Wilson tạo ra cơn sốt lớn với bộ phim hài The Wedding Crashers. Năm nay, cả hai hy vọng sẽ làm được điều tương tự với The Internship. Vào vai hai anh chàng thất nghiệp xin làm thực tập sinh tại hãng Google, bộ đôi danh hài này không thể lặp lại thành công trước đây của mình.
8. The Lone Ranger
Kinh phí: 250 triệu USD
Doanh thu: 230,4 triệu USD
the-lone-ranger-8878-1379210299.jpg
Từ lâu, Johnny Depp được coi là một thỏi nam châm hút khách tại các phòng vé. Pirates of the Caribbean: On Stranger Tides Alice in Wonderland, hai bộ phim tài tử này tham gia trước đây đều đạt mức doanh thu hơn 1 tỷ USD mỗi phim. Nhưng The Lone Ranger lại là một cột mốc đáng quên trong sự nghiệp của anh với doanh thu chỉ vỏn vẹn 230,4 triệu USD, chưa đủ để bù đắp chi phí làm phim.

10 phim gây thất vọng nhất trong năm

Được nhiều kỳ vọng nhưng dàn diễn viên nổi tiếng, kinh phí lớn cũng không giúp ‘John Carter’, ‘Battleship’ hay ‘Total Recall’ có được thành công.
1. Prometheus (xem trailer)
Kinh phí: 130 triệu USD
Doanh thu: 402,4 triệu USD
1-Prometheus-jpg-1356342561_500x0.jpg
"Prometheus" tạo ra nhiều thắc mắc với người xem.
Nếu chỉ nhìn vào thành phần làm phim, Prometheus là một bộ phim đáng được mong chờ. Đạo diễn phim là Ridley Scott, cha đẻ của series phim giả tưởng nổi tiếng Alien. Damon Lindelof, tác giả của loạt phim truyền hình ăn khách Lost, đảm nhiệm phần kịch bản. Bên cạnh đó dàn diễn viên tên tuổi như Charlize Theron, Michael Fassbender, Guy Pearce… và một khoản kinh phí lớn. Nhưng khi ra mắt, bộ phim không hấp dẫn như kỳ vọng. Nhiều nhà phê bình đánh giá Prometheus là một đống lộn xộn với nhiều câu hỏi không được giải đáp.
2. Cloud Atlas (xem trailer)
Kinh phí: khoảng 100 triệu USD
Doanh thu: 62,8 triệu USD
2-Cloud-atlas-jpg-1356342562_500x0.jpg
Cốt truyện của "Cloud Atlas" quá phức tạp với khán giả.
Đây là bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết ăn khách cùng tên của David Mitchell. Với cốt truyện dày đặc và phức tạp cùng một thông điệp mang tính triết học, Cloud Atlas đòi hỏi người xem phải có một cái nhìn đa chiều. Đây có thể là một trong những bộ phim hay nhất trong năm theo đánh giá về mặt chuyên môn nhưng lại thất bại trong việc kết nối với người xem.
3. John Carter (xem trailer)
Kinh phí: 250 triệu USD
Doanh thu: 282,7 triệu USD
3-John-Carter-jpg-1356342562_500x0.jpg
"John Carter" là một “trái đắng” của hãng Disney.
John Carter ra đời từ 100 năm trước trong bộ truyện tranh của nhà văn Edgar Rice Burroughs. Đây là nhân vật siêu anh hùng đầu tiên của thế giới giả tưởng nhưng lại “sinh sau đẻ muộn” nhất trên màn ảnh rộng. Với kinh phí sản xuất khổng lồ là 250 triệu USD, còn vượt cả siêu bom tấn Avatar, bộ phim nhận được sự kỳ vọng rất lớn. Tuy nhiên, các nhà làm phim đã không đưa được những yếu tố đặc sắc nhất của bộ truyện vào phim.
Cách chuyển thể trung thành với nguyên tác đã trở nên lỗi thời. Thêm vào đó, tiêu đề của bộ phim, sau khi bị thay đổi, đã không còn đáng nhớ và ấn tượng như tiêu đề gốc của bộ truyện tranh, John Carter of Mars. Ngoài ra, tháng ba chưa bao giờ là một thời điểm lý tưởng để ra mắt một phim bom tấn.
4. Battleship (xem trailer)
Kinh phí: 209 triệu USD
Doanh thu: 302,8 USD
4-Battleship-jpg-1356342562_500x0.jpg
"Battleship" chỉ gây ấn tượng ở phần kỹ xảo và âm thanh.
Trong năm qua, thật không may cho nam diễn viên Taylor Kitsch khi bộ phim thứ hai mà anh thủ vai chính (sau John Carter) cũng bị coi là một thất bại. Dựa trên một trò chơi nổi tiếng, Battleship tiếp tục khai thác đề tài quái vật ngoài hành tinh xâm lăng Trái đất nhưng đặt bối cảnh giữa biển khơi mênh mông với những chiến hạm hầm hố của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, phần kịch bản lại quá đơn giản và dễ đoán trước, không xứng với tầm vóc của bộ phim.
5. Brave (xem trailer)
Kinh phí: 185 triệu USD
Doanh thu: 535,3 triệu USD
5-Brave-jpg-1356342562_500x0.jpg
"Brave" thiếu chiều sâu hơn những bộ phim hoạt hình trước đây của Pixar.
Brave không phải là một bộ phim hoạt hình quá tệ. Ngược lại, nó là một phim giải trí dành cho gia đình rất tốt. Tuy nhiên với một tác phẩm có mác Pixar thì khán giả đòi hỏi nhiều hơn thế. Nội dung phim đi vào lối mòn dễ đoán trước, thiếu tham vọng và tính sử thi như bối cảnh phim đòi hỏi. So với các phim hoạt hình đình đám khác của Pixar như Wall-E, Up, The Incredibles hay Toy Story 3 thì Brave còn kém khá xa.
6. Snow White and The Hunstman (xem trailer)
Kinh phí: 170 triệu USD
Doanh thu: gần 400 triệu USD
6-Snow-white-and-the-huntsman-jpg-135634
Bạch Tuyết là một vai diễn quá sức đối với Kristen Stewart.
So với nhiều bộ phim trong năm 2012, phần hình ảnh và phục trang của Snow White and the Huntsman khá tốt, tạo hiệu ứng thị giác mạnh mẽ cho người xem. Tuy nhiên, vai trò của Chris Hemsworth bị lãng phí. Vai Thợ Săn của anh có nhiều đất diễn nhưng không được khai thác tới nơi tới chốn. Thêm vào đó, nhịp phim khá chậm chạp và phần hành động thiếu hấp dẫn.
7. Total Recall (xem trailer)
Kinh phí: 125 triệu USD
Doanh thu: Gần 200 triệu USD
"Total Recall" không còn tạo được mới lạ như phiên bản gốc.
Được đầu tư kinh phí lớn với phần kỹ xảo hoành tráng nhưng nội dung của Total Recall lại khá quen thuộc và dễ đoán. Chỉ sau khoảng nửa phim, khán giả đã có thể đoán được những diễn biến tiếp theo. So với bản gốc năm 1990, Total Recall 2012 không còn mang lại được cảm giác mới lạ khi đã có quá nhiều phim khai thác đề tài này xuất sắc hơn.
Về diễn xuất, Collin Farrell có nhiều cảnh hành động kịch tính nhưng không có gì nổi bật. Cách biểu lộ cảm xúc trên gương mặt anh tương đối giống nhau bất kể đó là cảnh giận dữ, sợ hãi, lo lắng hay suy tư. Tương tự, diễn xuất của hai người đẹp Jessica Biel và Kate Beckinsale cũng không thuyết phục.
8. Taken 2 (xem trailer)
Kinh phí: 45 triệu USD
Doanh thu: 363,3 triệu USD
8-Taken-2-jpg-1356342563_500x0.jpg
"Taken 2" chỉ thỏa mãn khán giả ở những pha hành động, rượt đuổi.
Sự thành công của Taken vào năm 2009 khiến rất nhiều người kỳ vọng vào phần hai của bộ phim này. Taken 2 vẫn giữ được không khí nghẹt thở, căng thẳng như phần một. Các cảnh hành động, rượt đuổi rất mãn nhãn. Bối cảnh của phim cũng rất đẹp với khung cảnh của thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng so với phần một, phần hai thiếu đi sự sâu sắc, đột phá, sáng tạo và bất ngờ. Tình tiết của phim đi theo một đường thẳng khiến Taken 2 mất “chất” đi rất nhiều.
9. Rock of Ages (xem trailer)
Kinh phí: 75 triệu USD
Doanh thu: 56,3 triệu USD
9-Rock-of-ages-jpg-1356342563_500x0.jpg
Sự có mặt của Tom Cruise cũng không giúp được gì nhiều cho "Rock of Ages".
Trước khi ra mắt, Rock of Ages được cho là sẽ tiếp bước Mamma Mia, một bộ phim ca nhạc rất ăn khách với doanh thu lên tới 610 triệu USD trên toàn cầu vào năm 2008. Nhưng thực tế, Rock of Ages gây thất vọng lớn. Việc “teen hóa” các ca khúc Rock kinh điển trong mọi tình huống khiến bộ phim bị chỉ trích là “nồi lẩu thập cẩm”. Sự góp mặt của siêu sao Tom Cruise cũng không cứu được Rock of Ages.
10. Dark Shadows (xem trailer)
Kinh phí: 150 triệu USD
Doanh thu: 239,1 triệu USD
10-Dark-shadows-jpg-1356342563_500x0.jpg
Phần hài hước của "Dark Shadows" lấn át hết phần kinh dị.
Đạo diễn Tim Burton vẫn gây được ấn tượng mạnh ở phần hình ảnh mang phong cách Gothic nhưng phần nội dung thiếu trọng tâm và sự chặt chẽ. Ngoài vai chính của Johnny Depp, các vai nữ xung quanh anh có vai trò nổi trội ngang nhau khiến nhiều chi tiết khiên cưỡng, bất hợp lý. Thêm nữa là sự pha trộn chưa được nuột nà nhiều thể loại như kinh dị, hài, tâm lý cũng khiến khán giả bị “loạn” khi theo dõi.

‘Taken 2’ thuần chạy đuổi và bắn giết

Những trường đoạn hành động của phần hai vẫn nghẹt thở và “ép phê” nhưng câu chuyện thiếu đi sự sâu sắc, bất ngờ như phần một.
Taken vốn là bộ phim hành động nổi tiếng của Pháp ra mắt năm 2008 với dàn diễn viên đa quốc tịch. Khi chiếu tại Mỹ, phim bất ngờ thành công lớn, đem lại tổng doanh thu gần 230 triệu USD (kinh phí chỉ hơn 26 triệu USD). Ngoài phần hành động đặc chất Pháp qua sự nhào nặn của nhà làm phim nổi tiếng Luc Besson, Taken còn gây xúc động bởi câu chuyện về người cha một mình đương đầu với những tên tội phạm nguy hiểm để cứu con gái khỏi một nhà thổ ở Paris. Sau 4 năm, số đông êkip cũ trở lại trong phần hai trừ đạo diễn. Oliver Megaton thay Pierre Morel kể một câu chuyện mới về “cưỡng đoạt”.
Trailer phim "Taken 2"
Lấy bối cảnh thời gian sau 2 năm Kim bị bắt cóc tại Paris ở phần một, trong chuyến công tác tới Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ), Bryan Mills bất ngờ khi thấy vợ và con gái tới thăm. Cả gia đình đoàn tụ chưa được bao lâu thì bất ngờ băng nhóm của ông trùm Murad - kẻ chủ mưu vụ bắt cóc ở Paris và cũng là cha một tên tội phạm bị Bryan bắt chết trong phần một - xuất hiện. Băng nhóm này muốn bắt sống gia đình Bryan để trả thù. Bryan và vợ cũ, Lenore, bị bắt cóc trên đường còn Kim thì bị truy đuổi. Với những kỹ năng của một đặc vụ CIA xuất sắc, Bryan một lần nữa đương đầu với những tên tội phạm Albania để bảo vệ gia đình mình.
Taken-2-17-jpg-1349492468_480x0.jpg
Liam Neeson tiếp tục vào vai người cha kỹ tính Bryan Mills trong "Taken 2". Ảnh: Fox.

Taken 2 có cách kể đơn giản, không vòng vo và qua trailer, người xem cũng có thể đoán được nội dung. Những tên tội phạm Albania muốn trả thù Bryan nên gài bẫy gia đình anh ở Istanbul. Bryan và Lenore bị bắt cóc còn cô con gái Kim đóng vai trò quan trọng hơn trong phần này. Tính cách Bryan Mills vẫn được xây dựng rất rõ nét như ở phần một - người đàn ông kỹ tính, hết lòng yêu thương vợ con và sẵn sàng đương đầu với cả thế giới để bảo vệ gia đình mình. Trong phần hai, nhân vật này sẽ còn khiến nhiều khán giả phải trầm trồ với khả năng tính toán và suy luận chính xác tới khó tin.
Phim vẫn giữ được không khí nghẹt thở, căng thẳng như phần một. Các cảnh hành động, rượt đuổi trên từng ngõ ngách cổ kính ở Istanbul rất mãn nhãn. Những màn đọ súng giữa Bryan và các tên tội phạm vẫn tạo sự hồi hộp, kích thích. Phần đánh đấm nhanh, gọn, dứt khoát. Tuy nhiên, vì gắn mác PG-13 (Khán giả dưới 13 tuổi cần có cha mẹ xem kèm) nên những cảnh này khá chừng mực và không có quá nhiều máu.
Taken-2-18-jpg-1349492469_480x0.jpg
Bối cảnh của phim diễn ra ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) với dàn diễn viên chính từ phần một. Ảnh: Fox.

Êkip thực hiện cũng lựa chọn được những bối cảnh rất đẹp ở Istanbul - thành phố giao thoa văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Sau Paris ở phần một, vẻ cổ kính của thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ với những ngõ hẹp, đường đá gồ ghề và những phiên chợ tấp nập cũng rất thích hợp với một bộ phim thuần hành động như Taken. Taken 2 còn sử dụng một phần âm nhạc từ Drive - bộ phim của đạo diễn Nicolas Winding Refn từng gây chú ý tại LHP quốc tế Cannes (Pháp) năm 2011.
Nếu chỉ xét về hành động thì Taken 2 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc đem tới cho khán giả những trường đoạn gay cấn. Tuy nhiên, với những ấn tượng cả về câu chuyện trong phần một, nhiều khán giả sẽ chờ đợi ở phần hai một cái gì đột phá và sáng tạo hơn. Điều đáng tiếc là kịch bản Taken 2 đã đi vào lối mòn, mọi thứ quá đơn giản và dễ đoán. Các tình tiết nối tiếp nhau trôi theo một đường thẳng khiến câu chuyện phim không còn “chất”. Nếu như ở phần một, đọng lại trong người xem đằng sau những cảnh hành động là câu chuyện xúc động về tình cha con, thì phần hai là thuần hành động, bắn giết với thông điệp rất rõ ràng trong lời giới thiệu: “Muốn trả thù, nhưng chúng đã chọn sai người”.
Taken-2-22-jpg-1349492469_480x0.jpg
Cô con gái Kim đóng vai trò quan trọng trong phần hai. Ảnh: Fox.
Với kiểu phim hành động thuần túy như Taken thì sẽ rất khó đòi hỏi phần sau phải hay hơn, đặc sắc hơn phần trước. Tuy nhiên, khán giả có thể yên tâm vì với cái kết khá dứt điểm, mọi thứ sẽ khỏi dây dưa sang phần ba.
Taken 2 (Cưỡng đoạt 2) khởi chiếu tại Việt Nam từ ngày 5/10.

16 phim ‘bùng nổ’ tại các rạp chiếu Việt tháng 10

Tháng đầu tiên của quý IV năm nay lập kỷ lục mới về số lượng phim chiếu rạp với nhiều tác phẩm đáng chú ý như ‘Scandal’, ‘Taken 2’, ‘Hotel Transylvania’ hay ‘Upside Down’.
1. Taken 2 (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 5/10
Phần tiếp theo của bộ phim hành động nổi tiếng do tài tử Liam Neeson thủ vai chính là tác phẩm mở màn rạp chiếu Việt tháng này. Taken 2 lấy bối cảnh thời gian hai năm sau sự kiện Kim bị bắt cóc ở Paris trong phần một, trong chuyến công tác tới Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ), Bryan Mills bất ngờ khi thấy vợ và con gái đến thăm. Cả gia đình đoàn tụ chưa được bao lâu thì Lenore, vợ của Bryan, bị băng nhóm của ông trùm Murad - kẻ chủ mưu vụ bắt cóc Kim ở Paris và cũng là cha của một tên tội phạm bị Bryan bắn chết trong phần một - bắt cóc để trả thù.
Liam Neeson trong phim
Liam Neeson trong phim "Taken 2".
Với những kỹ năng của một đặc vụ CIA xuất sắc, Bryan Hills một lần nữa phải tìm cách chống lại nhóm tội phạm nguy hiểm người Albania để bảo vệ những người thân trong gia đình. Tuy nhiên lần này, anh không đơn độc mà còn có sự trợ giúp đắc lực của cô con gái Kim...
2. Street Dance 2 – 3D (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 5/10
"Street Dance" được coi là một "Step Up" của điện ảnh Anh.
Nếu như Hollywood có loạt phim Step Up dành riêng cho giới trẻ thì điện ảnh Anh cũng tự hào với tác phẩm độc lập Street Dance. Phần hai của bộ phim này xoay quanh chuyện anh chàng vũ công đường phố Ash cùng người bạn mới quen Eddie lên đường tìm kiếm những thành viên tài năng nhất châu Âu để đánh bại một nhóm nhảy xuất sắc của thế giới. Trên hành trình đó, anh gặp gỡ và đem lòng yêu cô vũ công salsa xinh đẹp Eva ở thành phố Paris hoa lệ…
3. The Concubine (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 5/10
phi-1348918139_480x0.jpg
"Tình ái vương phi" có khá nhiều cảnh "nóng".
Là một tác phẩm mới của điện ảnh Hàn Quốc năm nay, The Concubine (Tình ái vương phi) xoay quanh câu chuyện xảy ra vào triều đại Joseon. Shin Hwa-yeon là con gái một tướng quân bị đem gả làm vợ lẽ Thái tử Seo-won. Tuy nhiên, cô lại đem lòng yêu Kwon-yoo – người bạn thưở thiếu thời. Khi vào cung, Hwa-yeon bị giằng xé giữa tình yêu với hai người đàn ông. Những câu chuyện thị phi của chốn hậu cung cũng khiến cô phải tự đấu tranh để sinh tồn.
4. Dangerous Liaisons (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 5/10
Chương Tử Di và Jang Dong-gun trao nhau nụ hôn nồng nàn trong
Chương Tử Di và Jang Dong-gun trao nhau nụ hôn nồng nàn trong "Dangerous Liaisons".
Được chuyển thể từ tiểu thuyết Les Liaisons Dangereuses của nhà văn Pháp Pierre Choderlos de Laclos xuất bản lần đầu năm 1782, Dangerous Liaisons là phiên bản điện ảnh của Hoa ngữ với sự tham gia của Chương Tử Di, Trương Bá Chi và tài tử Hàn Quốc Jang Dong-gun. Phim xây dựng một chốn phồn hoa đầy sa đọa và giả dối ở Thượng Hải (Trung Quốc) những năm 1930. Ba nhân vật chính cùng mang một nỗi đau về tình yêu nhưng có những âm mưu riêng. Họ lao vào mối quan hệ xác thịt đầy nguy hiểm và phức tạp.
5. Scandal – Bí mật thảm đỏ (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 12/10
Scandal là bộ phim mới nhất của đạo diễn Victor Vũ kể từ sau Thiên mệnh anh hùng rất thành công hồi mùa phim Tết đầu năm nay. Tác phẩm này khai thác đề tài cám dỗ của giới showbiz xung quanh câu chuyện về hai cô gái Ý Linh và Trà My mong muốn trở thành ngôi sao hàng đầu làng giải trí. Cả hai đều đang ở độ tuổi chín muồi nhan sắc và khát khao trở thành minh tinh lừng danh nhất showbiz. Họ tìm mọi cách lao lên nấc thang danh vọng bằng việc để lọt vào mắt xanh các ông trùm quyền lực làng giải trí.
Vân Trang ma mị trong một cảnh phim
Vân Trang ma mị trong một cảnh phim "Scandal" của đạo diễn Victor Vũ.
Hai người đẹp Vân Trang và Maya trở thành đối thủ trong Scandal. Phim sẽ lột tả những góc khuất dưới ánh đèn rực rỡ và danh vọng của giới showbiz. Sau rất nhiều những “thảm họa” hài nhảm trong nửa đầu năm nay, Scandal được kỳ vọng sẽ là một tác phẩm đặc sắc của phim Việt trong mùa cuối năm.
6. The Thieves (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 12/10
"Cô nàng ngổ ngáo" Jun Ji-huyn đóng vai chính trong "The Thieves".
Có cùng đề tài với Ocean’s Eleven của Hollywood, The Thieves của điện ảnh Hàn Quốc cuộc đối đầu của hai nhóm “siêu trộm” đến từ Hàn Quốc và Trung Quốc trong phi vụ tranh giành viên kim cương Nước Mắt Mặt Trời. “Cô nàng ngổ ngáo” Jun Ji-Hyun vào vai một tên trộm xinh đẹp, gợi cảm và sắc sảo. Ngoài ra, The Thieves còn có sự tham gia của nhiều ngôi sao nổi tiếng xứ kim chi như Kim Hye-soo, Lee Jung-jae và Kim Yoon-seok.
7. LOL (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 12/10
"LOL" là bộ phim thích hợp với những cô gái tuổi mới lớn.
LOL được làm lại từ bộ phim cùng tên của điện ảnh Pháp vào năm 2008. Nhân vật chính là Lola - cô nữ sinh 15 tuổi sau khi bị bạn trai bỏ đã tìm mọi cách để "thăm dò" bạn bè của anh ta. Mẹ Lola từng gặp phải hoàn cảnh tương tự khi bị chồng bỏ rơi giờ đây muốn xen vào chuyện tình cảm của con gái mình. Những câu chuyện nhẹ nhàng, hài hước về tình cảm mẹ con và sự khác biệt giữa hai thế hệ là chủ đề chính của LOL. Miley Cyrus và Demi Moore vào vai hai mẹ con, trong khi người đẹp Ashley Greene đóng vai cô hot girl xấu tính của trường trung học.
8. Frankenweenie 3D (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 12/10
Bộ phim hoạt hình mới của đạo diễn Tim Burton nói về cậu bé Victor Frankenstein yêu khoa học quyết định tìm đủ mọi cách để hồi sinh người bạn thân thiết của mình là chú chó Sparky. Sau khi thành công, Victor cố gắng che hết những đường may chắp vá trên thân thể chú chó. Tuy nhiên, khi Sparky thoát ra ngoài đường phố, cả thị trấn biết được bí mật của Victor và nhận thấy nhiều điều kỳ quái đang diễn ra xung quanh cậu bé này.
"Frankenweenie" là phim hoạt hình đen trắng của đạo diễn Tim Burton.
Frankenweenie là phim hoạt hình được làm đen trắng với phong cách kỳ dị đặc trưng của Tim Burton. Phim được nhà sản xuất kỳ vọng sẽ lọt vào danh sách đề cử của Oscar năm sau ở hạng mục Phim hoạt hình hay nhất.
9. Alex Cross (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 19/10
Tyler Perry vào vai thám tử Alex Cross trong bộ phim trinh thám cùng tên.
Tyler Perry vào vai thám tử Alex Cross trong bộ phim trinh thám cùng tên.
Alex Cross là bộ phim dành riêng cho khán giả hâm mộ thể loại phim trinh thám, tội ác. Ngôi sao da màu Tyler Perry vào vai Alex Cross – một thám tử kiêm bác sĩ tâm lý học buộc phải vào cuộc truy tìm một tên sát nhân hàng loạt khi chính người thân của anh đang gặp nguy hiểm. Điều đặc biệt là tâm lý của tên tội phạm anh đang lùng bắt lại không hề dễ đoán chút nào. Phim còn có sự tham gia của tài tử Matthew Fox – người từng được nhiều khán giả Việt Nam biết tới qua loạt phim truyền hình Lost.
10. Zindagi Na Milegi Dobara (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 19/10
Sau Ek Tha TigerCocktail trong tháng 9, khán giả Việt Nam tiếp tục được thưởng thức một bộ phim nữa của điện ảnh Bollywood – Zindagi Na Milegi Dobara. Đây là phim hài, phiêu lưu có rating cao trên trang web chuyên về điện ảnh IMDB (7,9 điểm). Được ví như một phiên bản The Hangover của Bollywood, phim xoay quanh ba người bạn thân - Arjun, Imraan và Kabir. Để mừng bữa tiệc độc thân trước khi Kabir lên xe hoa, họ lên đường tới Tây Ban Nha.
Các diễn viên chính trong phim
Các diễn viên chính trong phim "Zindagi Na Milegi Dobara".
Tại xứ sở bò tót, ba chàng trai gặp gỡ với cô gái trẻ Laila - người nảy sinh tình cảm với Arjun. Nhưng chuyến đi vòng quanh Tây Ban Nha không hề suôn sẻ như họ nghĩ ban đầu. Nhiều tình huống dở khóc dở cười xảy đến và đẩy ba chàng trai vào một chuyến đi nhớ đời... Zindagi Na Milegi Dobara đã đạt 16 giải thưởng điện ảnh lớn nhỏ, trong đó có giải Kịch bản phim xuất sắc từ Hội đồng phim Ấn Độ. Phim được chiếu tại Việt Nam với tựa Sống chỉ một lần.
11. Hotel Transylvania 3D (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 19/10
"Hotel Transylvania" khai thác nhân vật Dracula dưới một khía cạnh hài hước.
Hotel Transylvania là phim hoạt hình 3D mới nhất của Hollywood sẽ có phiên bản lồng tiếng Việt. Chuyện xảy ra trong một khách sạn cổ kính, nơi Dracula – chủ nhân – chuẩn bị tổ chức tiệc sinh nhật lần thứ 118 cho cô con gái Mavis. Sự xuất hiện bất thình lình của anh chàng Jonathan khiến cả khách sạn trở nên đảo lộn. Dracula phải ngăn chặn mối tình giữa người thường (Jonathan) và ma cà rồng (Mavis) trước khi quá muộn. Phim dựa theo truyền thuyết của Dracula nhưng được hư cấu đi một cách hài hước và vui nhộn.
12. The Grand Heist (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 19/10
"The Grand Heist" hứa hẹn sẽ mang đến cho khán giả nhiều tiếng cười.
Khán giả yêu thích nam diễn viên Hàn Quốc Cha Tae-hyun có dịp gặp lại anh trong bộ phim The Grand Heist vào tháng này. Phim lấy bối cảnh triều đại Joseon khi băng là biểu tượng của phú quý và có giá trị hơn vàng. Nhân vật chính Lee Duk-moo là con của nhị vương gia, bị buộc tội oan và giam giữ trong ngục cùng một viên quan trung thành trông coi phủ quản lý hộp băng hoàng gia. Khi biết có kẻ ngầm hãm hại mình, Duk-moo lên kế hoạch cướp kho băng với sự trợ giúp của 9 tên trộm chuyên nghiệp.
13. Seeking a Friend for the End of the World (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 26/10
Keira Knightley và Steve Carell trong
Keira Knightley và Steve Carell trong "Seeking a Friend for the End of the World".
Có sự tham gia của minh tinh Keira Knightley và danh hài Steve Carell, Seeking a Friend to the End of the World đưa người xem bước vào một cuộc hành trình hài hước, cảm động và gần gũi trên bối cảnh hùng tráng của Ngày Tận Thế. Khi Trái Đất sắp bị hủy diệt bởi một hành tinh với đường kính 70 dặm đang lao thẳng tới, chàng nhân viên bán bảo hiểm Dodge nhận ra mình cần đi tìm lại người vợ Olivia. Trong khi đó, cô hàng xóm Penny muốn dành những ngày cuối cùng của cuộc đời bên gia đình ở Anh. Cả hai gặp nhau trên cùng một con đường và trong những thời khắc cuối cùng của sự sống, họ trở thành những người tri kỷ.
14. The Possession (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 26/10
"The Possession" là phim kinh dị tâm linh chiếu vào dịp Halloween.
Bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật, The Possession, là tác phẩm kinh dị dành riêng cho mùa Halloween tại Việt Nam năm nay. Phim kể về một cô bé tình cờ mua được chiếc hộp gỗ ẩn chứa một linh hồn đầy thù hận bên trong. Sau nhiều lần đắn đo, cô bé quyết định mở chiếc hộp và bỗng dưng trở thành một người hoàn toàn khác. Với kinh phí 14 triệu USD, The Possession đã đạt doanh thu 65,4 triệu USD và hai tuần liên tiếp đứng quán quân 10 phim ăn khách Bắc Mỹ khi ra mắt hồi cuối tháng 8.
15. Masquerade (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 26/10
Lee Byung-hun trong một cảnh phim
Lee Byung-hun trong một cảnh phim "Masquerade".
Masquerade là phim Hàn Quốc thứ tư chiếu ở Việt Nam trong tháng này và cũng lấy bối cảnh cổ trang. Phim kể về một thường dân bỗng dưng vào thay vị trí cho vị vua Gwang-hae – người đang phải đối mặt với nguy cơ bị hạ bệ và truất ngôi. Nội dung phim xoay quanh 15 ngày mất tích của vị vua này với nhiều bí ẩn. Nam diễn viên Lee Byung-hun đóng hai vai, vừa là thường dân, vừa là vua Gwang-hae trong bộ phim này.
16. Upside Down (xem trailer)
Ngày khởi chiếu: 26/10
Bộ phim tâm lý giả tưởng của cặp diễn viên Kirsten Dunst – Jim Sturgess có tên Upside Down đem tới một vũ trụ không tưởng và khác thường về trọng lực. Adam là một chàng trai bình thường sống ở thế giới phía dưới. Anh đem lòng yêu Eve – cô gái sống ở thế giới phía trên. Những định luật về khoa học, những khác biệt về trọng lực cũng không thể ngăn cách tình cảm của đôi tình nhân trẻ.  
Hình ảnh độc đáo trong phim
Hình ảnh độc đáo trong phim "Upside Down".
Upside Down tạo nên hai thế giới đối lập theo hai chiều không gian rất ngoạn mục. Câu chuyện tình của Adam và Eve cũng có thể ví như một phiên bản của Romeo và Juliet. Với kỹ xảo mãn nhãn và dàn diễn viên đẹp, Upside Down là bộ phim xứng đáng khép lại mùa phim thu đầy màu sắc tại Việt Nam năm nay.

Vay mượn từ tiếng Tàu - PHÁP - ANH

Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong việc hình thành ngôn ngữ vay mượn.

Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để giải thích sự vay mượn của ngôn ngữ Việt: “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Như vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ tự thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những năm chiến tranh gần đây nhất.

Trước hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người TàuBa TàuCác ChúKhách Trú và Chệt hoặc Chệc
Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
 “…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.

“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.

“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...

Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển ViệtNamchệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệcđể chỉ chung người Hoa.

Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:

Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!

Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấpbò viêntôm viênruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tíu Tiều Châu.

Người ta còn dùng các từ như KhựaXẩmChú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.

Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa.

Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.

Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang.

Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông(Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.

Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).

Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.

Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.

Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầucao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sàigòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới,Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.

Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:

- Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
- Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
- Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
- Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.

Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:

- Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
- Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
- Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về

Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều mónhuyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).

Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi.

Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?).


Cơm thố

Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá... còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!

Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Ban không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cútlan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.

Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.

Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Xe mì Tàu còn giữ đến ngày nay
(Ảnh chụp tại xe mì gần Hồ Con Rùa, Sài Gòn)

Ăn điểm tâm thì có hủ tíubánh baohá cảoxíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.

Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.

Cà phê pha bằng vợt
(ảnh Trần Việt Đức)

Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “… Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa.

Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhinhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).

Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì chothầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.    

Lạp xưởng (người miền Bắc gọi là Lạp xường) là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộlạp xưởng khôlạp xưởng tươi

Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu.

Lạp xưởng

Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.

Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay.

Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.

Bánh pía Sóc Trăng

Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướp ngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm.

Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng! 

Thịt quay Chợ Lớn

Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa.

Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tàihoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.

Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng(flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại - three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.

Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát.

Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưahttp://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/11).

Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đíchlượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do. 

Tiệm chạp phô của người Tàu

Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là đại gia. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.

Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…

Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như NamĐô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.

Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos!

Quảng cáo kem đánh răng Hynos

Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhân.

Tạ Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”. Ông Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng tình trạng chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc họp kín gồm đủ thành phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn để cảnh cáo.

Pháp trường cát trước Chợ Bến Thành

(Còn tiếp) 

===

Chú thích:

(1) Bình- nguyên Lộc là bút hiệu của Tô Văn Tuấn (1914-1987) với cách viết tên rất cầu kỳ: có gạch nối giữa Bình và nguyên, nhưng không có gạch nối giữa nguyên và Lộc, chữ nguyên lại được viết với mẫu tự n không hoa. Nguiễn Ngu-Í trong “Sống và viết với... Bình-nguyên Lộc”, gọi ông là “một trong tam kiệt của miền Nam” bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương. Bình-nguyên Lộc có khoảng 50 truyện dài, 1.000 truyện ngắn và 4 quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại khoảng 800 trang viết tay coi như bị thất lạc. Tác phẩm nổi tiếng phải kể đến Đò dọcRừng mắmCuống rún chưa lìa…

(2) Sữa Ông Thọ là tên gọi của hiệu sữa Longevity trước đây thuộc hãng sữa Foremost. Tên được dùng trước năm 1975 với hình Ông Thọ trong Tam Đa (Phước, Lộc, Thọ) để minh họa. Sau năm 1975, Vinamilk sử dụng lại tên Ông Thọ nên khi Foremost quay trở lại Việt Nam kiện đòi lại thương hiệu nhưng thất bại nên phải dùng nhãn hiệu Longevity.
Hiện nay Longevity đã được chuyển nhượng cho Dutch Lady VN với cái tên Sữa đặc Trường Sinh.

(3) Sữa Con Chim của hãng Nestlé (Thụy Sĩ) đặt chân đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1916. Trải qua nhiều thập kỷ, các sản phẩm như Guigoz, Lait Mont-Blanc, Maggi đã trở nên thân thuộc với các thế hệ người Việt. Nestlé trở lại Việt Nam vào năm 1990, và mở một văn phòng đại diện vào năm 1993. Vào năm 1995, Công ty Nestlé Việt Nam (100% vốn đầu tư nước ngoài) được thành lập, trực thuộc tập đoàn Nestlé S.A.

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Pháp

(Tiếp theo)

Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây” (Trịnh Công Sơn, Gia tài của Mẹ), Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân. 

Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.

Linh mục Alexandre de Rhodes

Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báolà tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.

Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên.  Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông(monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).

Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa(tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)... Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp). 

Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.

Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gareGa là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân gatrưởng gaga chínhga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille) cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác.

Xe lửa ngày xưa

Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dãn, không đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum), bao cao su (còn gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục)…

Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính.    

Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière,được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…

Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn –filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.

Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài –baguette),  bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud),bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).

Bánh “pathé chaud”

Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).

Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.

Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi.  Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.

Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực –soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).

Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu –laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).

Mũ phớt

Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt kích (ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô (commando). Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi làcông-voa (convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từblockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông. 

Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui),sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi làhải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.

Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade),cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…

Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valsetango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn harmonica (khẩu cầm)... Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc –orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như  (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)... Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đã nói ở phần trên.

Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité) của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện.

Logo của Nestlé

Cũng vì thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về sữa Con Chim. Chú Ba Tàu, chủ tiệm “chạp phô”, giải thích vì sao sữa Con Chim lại bán với giá mắc hơn những sữa khác: “Sữa con bò vì có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên đắt nhưng Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quý lắm thì phải mắc tiền nhất chớ!”.

Các ông lại giải thích một cách hóm hỉnh khi các bà thắc mắc Con Chim làm gì có sữa: “Tại mấy bà không để ý đấy thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra một thứ sữa màu trắng đục, đó không phải là sữa thì là gì?”.

Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và sữa bộtGuigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út: vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.

Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…

Lon Guigoz

Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến.

Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng  làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng  làm ly đựng nước súc miệng, nhưng  còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc.

Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” vàlon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”.

Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web (http://www.teslogos.com/ancienne_boite_de_lait_guigoz_collector_collection.html) của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa!

Sữa bột Guigoz

Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – autoautomobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe - chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ(thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…

Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông  (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan(bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa –porte-bagages).

Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồiphanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ nhưgạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).

Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.

Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.

Xe đạp Mercier ngày xưa 
có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz


Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Anh

Đây là bài th 3 trong lot bài nghiên cu v nhng ch vay mượn trong ngôn ng Sài Gòn xưa. Sau khi bàn v tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyn sang tiếng Anh và bước vào mt nn văn hóa đã có nhng nh hưởng “tt” cũng như “xu” vào đi sng ca người Vit trong khong 30 năm chiến tranh va qua.

Có người gi cuc chiến va qua là “ni chiến” gia hai min Nam-Bc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuc chiến tranh Vit Nam” hay nói mt cách khác là “cuc đi đu gia hai phe”, mt bên là T do gm Vit Nam Cng hòa, Hoa Kỳ và 5 nước Đng minh (gm Australia, New Zealand, Đi Hàn, Thái Lan và Philipin) và mt bên là Cng Sn gm Vit Nam Dân ch Cng Hòa, Liên Xô và Trung Quc.

Tinh thn ca bài viết này không bàn đến vic “đúng” hay “sai” ca cuc chiến mà ch xoáy quanh nhng nh hưởng ca nn văn hóa M đi vi ngôn ng Vit trong sut 30 năm chiến tranh.

Nước M còn được gi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (c hoa). Danh xưng này đã xut hin trong văn chương Vit Nam t cui thế k th 19 qua thut ngđèn Hoa Kỳ”. Vũ Trng Phng trong V đê, xut bn năm 1936, có đon viết: “…Dung tìm bao diêm ô kéo, đt mt cây đèn hoa kỳ lên, tt pht ngn la đèn du xăng. Nhìn ra sân, thy tri ti om, Dung bèn b bao diêm vào túi…”.

Nguyn Công Hoan trong Nh và ghi v Hà Ni gii thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn ca bn M sang ta buôn du ho. Mun bán được du ho, nó phi làm đèn cho người mua du dùng (...). Du ca M, viết tt là Socony (Standard Oil Company of New York), cnh tranh vi du ca Anh viết tt là Shell.

Bt c thành th hay nông thôn, h có đi lý du M, là gn đó, có ngay đi lý du Anh. Và trái li. Nhà bán du M có bin sơn màu vàng, nhà bán du Anh có bin sơn màu đ. Nhng nơi bán du xăng ô tô, Anh M cũng cnh tranh như vy. Hà Ni, còn có xe du đi bán ph, cũng sơn màu ca hãng... Tr s ca y ban Khoa hc K thut ph Trn Hưng Đo, s 39, là tr s cũ ca hãng du Shell ca Anh, nên quét vôi màu đ. Ngày trước ta gi là nhà du Shell (...).

Royal Dutch Shell (người bình dân gi là hãng du “con sò”) đã thc hin mt chiến dch “tiếp th” ngon mc là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Vit vn ch quen dùng du lc hay nến (bch lp) đ thp sáng mà không quen dùng du ha. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đi sng ca người Vit thì cũng là lúc mi người làm quen vi vic dùng du ha đ đt đèn.

Nhãn hiu Shell ln đu tiên xut hin vào năm 1891 qua logo “con sò” trên thùng du ha mà Marcus Samuel và các cng s chuyn đến vùng Vin Đông. Nht Thanh trong Đt l quen thói (1968) gii thích thêm: “Cui thế k XIX người Tây đem du la, cũng gi du hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán du đã chế ra th đèn nh, ngn la va bng ngn đèn du chay, đèn được cho không kèm theo mi thùng du bán ra, đ làm qung cáo; không rõ lúc y du la t x nào nhp cng, mà cái đèn kia được gi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay ti nhiu nhà nó vn là bn c tri bên cnh cái điếu thuc lào.

Bc tranh "Đèn Hoa Kỳ"  ca ha sĩ Bùi Xuân Phái

Như vy, thut ngđèn Hoa Kỳ” (còn gi là đèn “ht vt” ti min Nam), đt bng du ha (còn gi làdu la hay du hôi), đã xut hin t rt lâu, trước khi có cuc Chiến tranh Vit Nam. Người ta còn dùng t ng du Tây đ gi du ha khi mi du nhp vào Vit Nam. Ngày xưa, loi du này được đng trong thùng st tây như trong bc tranh Bán du Tây ca Henri Oger năm 1909 (1). Loi thùng st này sau khi đng du được tái chế thành thùng gánh nước hoc ct ra làm các vt dng khác như đ chơi cho tr em bng thiếc.

Tranh khc “Bán du tây” ca Henri Oger

Mt trường hp tiếng Anh khác đã du nhp vào Vit Nam t lâu là trò chơi ca tr con: “On tù tì” dch tOne, Two, Three”. Hu như mi người Vit đu đã tng ra cái búa, cái kéo hoc cái bao sau khi đc câu “On tù tì. Ra cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và có mt trong 3 la chn, cái búa thì đp cái kéo, cái kéo thì ct cái bao và cái bao li bao được cái búa.

V nt giáo dc, tiếng Anh du nhp min Nam qua hai thi kỳ, dưới hai dng ngôn ngtiếng Anh ca người Anh (British English) và tiếng Anh ca người M (American English). Thi Đ nht Cng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song vi tiếng Pháp, được chn làm sinh ng chính và ph, tùy theo s la chn ca hc sinh t bc Trung hc (lp Đ tht tr lên). Tài liu ging dy tiếng Anh vn l thuc vào chương trình ca người Pháp nên chu nh hưởng cBritish English (còn gi là Ăng-lê –Anglais). Mt trong nhng sách hc tiếng Anh ph biến trong thi kỳ này là b L’Anglais Vivant ca nhà xut bn Hachette (Pháp).

L’Anglais Vivant

Đ nh Cng hòa (1963-1975) là thi thnh hành cAmerican English ti min Nam. Điu này cũng d hiu vì s có mt ca quân đi M trong cuc chiến tranh Vit Nam (2). Vào giai đon này, người ta bt đu s dng nhng sách giáo khoa theo trường phái American English như English for Today,English 900American Streamline… Ngôn ng Sài Gòn xưa chu nh hưởng sâu đm ca tiếng M trong thi kỳ này và có nhng vay mượn rt lý thú.

OK (okay) có l là mt t ni bt nht trong tiếng M được s dng rng rãi ti min Nam và nhiu quc gia trên thế gii. Mt s người cho rng t này bt ngun này b tc da đ Choctaws Châu M. Chokeh” ca người Choctaw có nghĩa tương t như t OK ca người M. Tuy nhiên, cũng có rt nhiu tranh cãi v thut ng này. Theo chuyên gia ngôn ng Allen Walker Read,  OK là dng viết ngn ca cm tall correct”. Nhng người khác thì cho rng OK là dng ch tt ca các t Hy Lp có nghĩa là mi th đu n c. Không phi ai cũng đng ý vi nhng gii thích này nên kết lun hãy còn b ng.

Ti min Nam, còn phát sinh t ng OK Salem, mt t ghép thường được dùng bi gii bình dân, ít hc như gái bán ba (bar), dân xích lô hoc tr đánh giày. Mt hình nh phi nói là rt xu trên đường ph thi đó: tr con thường chy theo các chú GIs (Government Issues – ám ch lính M vì dùng đ chính ph cp phát) đ chìa tay xin thuc lá hay kchewing-gum (ko cao su)… ming thì OK Salemri rít.

Thuc hút Salem có v bc hà (menthol), rt thnh hành khi lính M đến Vit Nam, h mua t PX (Post Exchange – mt hình thQuân tiếp v, ch bán cho quân nhân Hoa Kỳ) và tun hàng ra th trường ch đen (black market). Người Sài Gòn chê Salem là loi thuc dành cho… ph n, thuc dành cho đàn ông “sành điu” phi k đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…

Salem được gii ăn chơi Sài Thành “chiết t” thành Sao Anh Làm Em Mt trong khi Pall Mall được gii lính tráng biến thành cm t Phi Anh Là Lính, Mi Anh Lên Lin… Có điu thuc Salem ti M được phát âm là “xê-lm” nhưng khi sang đến Vit Nam li biến thành “xa-lem” nên nếu có sang M mà hi mua thuc “xa-lem” chc chn người bán s lc đu quy quy! 

Thuc lá Salem

Number one cũng là mt cm t được dùng thường xuyên ti min Nam vi ng ý… s dzách hay s mt. Người bình dân dùng number one thay cho good chng hn như trong câu tiếng Anh “bi”: “You number one GI!”. Phn nghĩa vnumber one s là number ten, hoc t hơn na là “nâm-b ten tháo giường” được Vit hóa tnumber ten thousand” (s mười ngàn). Ai dám bo là dân Vit không có óc khôi hài?

Cao bi là thut ng đã đi vào ngôn ng min Nam khi hàng lot các loi “phim min Tây” (Western movies) hay còn gi là “phim cao-bi”, được chiếu ti các rp xi nê. Cowboys vn là nhng chàng trai chăn bò, có người hành đng mt cách nghĩa hip “tr gian dit bo” nhưng cũng có nhng k “đu trm đuôi cướp” trong bi cnh Min Tây Hoang dã (the Wild Wild West) ti Hoa Kỳ thi lp quc. Bên cnh các cowboys còn có s hin din csheriff vi ngôi sao trên ngc, h là nhng cnh sát do dân trong th trn bu lên đ thc thi lut pháp. 

Phim cao bi đu tiên ti M thuc loi phim câm (silent film) mang tên The Great Train Robbery được sn xut vào năm 1903. Nhng phim cao bi ni tiếng thi Sài Gòn xưa phi k đếGunfight at the O.K. Corral (năm 1957 vi các tài t Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 vi John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The Misfits (1961 vi Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift),The Good, the Bad and the Ugly (1966 vi Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970 vi Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…
 
Cao bi đeo ngôi sao Sheriff
(nh chp năm 1971 ti Alamo Village, San Antonio, Texas)

T ng cao bi sau khi du nhp vào min Nam li có nhng biến th v ý nghĩa. Ngườlái xe cao biđược hiu là lái u, ăn mc cao bi là din nhng b qun áo l lăng, khó coi…

Tôi còn nh, ngày xưa thường hát Hc sinh hành khúc ca Lê Thương (nghe bn nhc này tihttp://www.youtube.com/watch?v=f2oYKkPgnFs&feature=related ) vi nhng li ca tng mt thế h hc sinh ca tương lai đt nước:

Hc sinh là người t quc mong cho mai sau.
Hc sinh xây đi niên thiếu trên bao công lao…”

Thế nhưng bài hát này đã được ai đó, chc là my cu hc trò “rn mt”, ci biên thành:

Hc sinh cao bi mc áo sơ mi ca rô
Hc sinh là người h tiếu ăn hai ba tô…”

Ch là hc sinh ch có đng phc qun xanh-áo trng nên anh nào mc áo ca rô thì b “chp mũ” làhc sinh cao bi. Còn cái v h tiếu mà ăn ti “hai, ba tô” thì phi “xét li”, có th vì “bí vn” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vn “h tiếu ăn hai ba tô” ch hc sinh làm gì có tin mà ăn nhiu đến thế.

Tin đây cũng xin nhc li chuyn phim nh ca Sài Gòn xưa. Đ din t mt mt s kin có tính cách kinh d, người ta còn dùng t ng “hít-cc”, xut x t cái tên ca đo din Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh d” ca nn đin nh Hoa Kỳ vi khong 50 b phim kéo dài sut 6 thp k.

Người Sài Gòn đã có dp xem rt nhiphim hít-c“toát m hôi lnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, vi James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đot gii Oscar âm nhc hay nht); Vertigo (1958, vi James Stewart, Kim Novak); Psycho (1960, vi Anthony Perkins, Janet Leigh); The Birds (1963, vi Tippi Hedren, Rod Taylor)… (Xem thêm bài viết v Đin nh Sài Gòn tihttp://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10). 

Mt trong nhng tác đng xu ca người M đến min Nam trong cuc chiến va qua là hin tượngxì-nách ba (snack bar) mc lên như nm sau cơn mưa ti Sài Gòn. Khác hn vsnack bar nguyên thy Hoa Kỳ, thường được hiu là nơi bán các loi thc ăn nh (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo đ ung.

Sang đến Vit Nam, xì-nách ba tr thành nơi lui ti ca nhng người lính M xa nhà đ ung rượu gii su và được phc v bi các cô gái bn x. H thường là gái quê, ít hc và có chút nhan sc, ăn mc “thi thượng” vi chiếmini jupe ngn cũn cn. Gái xì-nách ba, hay còn gi là gái bán ba, thường ch ngi ung nước ngt hay nước trà vi khách nên lính M gi đó là Saigon Tea có giá t 1 đến 2 đô la mt ly. Các cô làm  xì-nách ba không hn là gái điếm vì không phi cô nào cũng “đi khách”.

Cũng t các cô gái bán ba phát sinh ra loi tiếng Anh “gi cy” kiu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyn gia các cô “đu hót” vi lính MHello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng rn vi câu “No star where”, mt cm t trn an mà các cô dch thng t tiếng Vit: Không sao đâu!

Lính M còn đưa vào Vit Nam mt s thut ng được dùng t hi chiến tranh Triu Tiên. Đ gi người đà bà ln tui h dùng mama-san, đàn ông thì gi là papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu chuyn  snack bar người ta thường bt gp nhng t này khi các cô gái bán ba mun nói v gia đình mình. Mama-san còn được dùng đ ch người điu hành snack bar, tương t như tài-pán, người ph trách điu đng gái nhy ti các dancing thi Pháp thuc.

Kinh doanh xì-nách ba là mt ngh hái ra tin ti Sài Gòn bên cnh nhng dch v như tm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các ngh này đã khiến cuc sng trong xã hi mt đi s lành mnh, đưa đy mt s ph n vào con đường ti li. Tuy nhiên, người ta cũng hiu đó là nhng h qu không th nào tránh khi ca mt đt nước trong tình trng chiến tranh.

Sài Gòn và nhng quán bar, nhà hàng, khách sn

Xã hi min Nam bên cnh ngh thu hút mt s người làm vic ti các quán ba còn có mt giai cp cao hơn, h làm vic cho các hãng thu tư nhân ca M như hãng RMK được thành lp t đu thp niên 60 vi các công trình xây dng xa l Biên Hòa, quc l 4 ti Phng Hip… hoc các cơ quan trc thuc chính ph Hoa Kỳ như USAID.

Nói chung, h là nhng ngườđi làm s M vi mc lương cao nhưng phi đt mt trình đ tiếng Anh kh dĩ trong công vic hàng ngày. Nhng người có trình đ cao hơn thì làm thông dch viên, ngay như Trường Sinh ng Quân đi cũng có nhng khóa đào to thông dch viên đng hóa vi cp bc trung s đ v phc v ti các tiu khu có c vn M.

Năm 2011, ti Little Saigon, đã có mt bui hp mt “Cu nhân viên s M” nhân dp Giáng sinh. Gn 400 cu nhân viên đã đến d cuc hi ng này, đa s là nhng người đã tng làm vic ti Tòa đi s, Tng lãnh s M, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng nhng nhân viên hãng thu RMK ca tư nhân. 

Cui thp niên 60 và đu thp niên 70 là thi kỳ Sài Gòn chu nh hưởng t ca phong trào hippy (hippie) ca M. Người ta thy xut hin nhng t ng có liên quan đến hippy như hoa hippyhippy bi đihippy choai choaihippy yaourt… Nhng kithi trang hippy cũng xut hin: váy ngn (mini jupe, miniskirt), qun ng loe (qun chân voi), áo dài hippy thì ngn cũn cn mc chung vi qun ng loe còn con trai thì tóc dài đến đ nhìn t xa không th nào phân bit được gii tính…

Văn hóa hippy bao gm t phong cách ăn mc “bi” đến nhng tư tưởng phóng khoáng, chng li nhng quy ước cng nhc ca xã hi. Có th nói, phong trào hippy là biến tu cch nghĩa hin sinh (existentialism) theo kiu “yêu cung, sng vi” vi Jean Paul Sarte, Françoise Sagan t văn hóa Pháp.

Cui thp niên 60s, phong trào phn đi chiến tranh Vit Nam đã n r ti M vi khu hiu “Make love not war". Biu tượng ca phong trào hippy là hoa không lá (còn gi là hoa hippy), đó là hình tượng cPower Flower (sc mnh ca hoa) được bt đu t năm 1965 ti khu Berkerly, California. Người ta còn nh mãi hình nh mt cô gái hippy đã gn hoa trên hng súng ca mt quân nhân thi hành nhim v gi trt t trong mt cuc biu tình phn chiến (3).

“Power Flower” – Hoa Hippy

Sài Gòn, các người đp gn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mt kính đ làm duyên. Người ta còn v hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thm chí đôi lúc còn thy hoa hippy xut hin trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có mt chiếc áo khi i đ b than rt cháy thng mt l, thế là cô gn luôn mt cái hoa hippy, trước là đ “ngy trang” sau là chy theo… thi trang! Có th nói Sài Gòn khi đó ging như Trăm hoa đua n, nhi tên mt chiến dch thanh trng chính tr min Bc.  

Tôi còn nh, Trường Sinh ng Quân đi vào cui thp niên 60 có mt Chun úy mi t Th Đc v. Anh Thnh là mt chun úy tr, có hc v cao nhưng li rt lè phè trong li sng. Hng ngày anh đến trường bng chiếc xe hơi b mui (decapotable) được trang trí bng nhng bông hoa hippy. Thế là anh chun úy tr có tên “Thnh Hippy” k t đó.

Bc hình này gi nh “Thnh Hippy” trường SNQĐ

Có th nói, phong trào hippy cũng lan rng đến người lính qua chuyn v “Thnh Hippy” nhưng nói chung, nhng người lính trn mi khi có dp đi phép v thành ph chc chn không th chp nhli sng hippy ca các thanh niên, thiếu n ti chn phn hoa đô hi.

Nhng người hng ngày phi đương đu vi súng đn làm sao có th “thông cm” vi nhng người hng đêm đi “bum” ti các phòng trà, dancing. Mt đng thì phi hy sinh tính mng đ “tham chiến” còn mt đng thì li ăn chơi đ “phn chiến”. Đó là mt trong nhng “mâu thun” trong chiến tranh Vit Nam. Phi chăng đó cũng là mt trong nhng lý do khiến min Nam sp đ

===

Chú thích:

(1) Henri Oger (1885-1936?) tên đy đ là Henri-Joseph Oger là mt người Pháp tình nguyn sang Bc Kỳ đi lính và được biết đến qua b sưu tp tranh mc bn v các sinh hot thường nht ca người Vit vào đu thế k 20. Trong khong 20 tháng làm vic ti Hà Ni (1907-1909), ông là người đã cùng các ha sĩ, th khc mc bn, th in và các nhà Nho c vn (tt c trên ba mươi người) hoàn thành tác phTechnique du peuple annamite (K thut ca người An Nam), mt công trình nghiên cu v văn minh vt cht ca vùng Hà Ni vào đu thế k 20.

nước ngoài, mt ít bn hin lưu gi dưới dng vi phim ti các ĐH như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California Berkeley, Cornell. Ti Pháp, lưu Thư vin ngh thut và kho c hc - Paris IV Sorbonne. Ti Nht, lưu ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng Vit Nam là nơi n hành hin cũng ch còn biết đến hai bn: mt bn (không đy đ) lưu gi ti Thư vin quc gia Hà Ni, và mt bn khác (tương đi tt) lưu gi ti Thư vin dưới thi Vit Nam Cng hòa.

(2) Trên thc tế, tháng 9/1950 Tng thng M Harry Truman đã c mPhái b C vn Quân s(Military Assistance Advisory Group - MAAG) đến Vit Nam đ tr giúp quân vin chinh Pháp trong cuc chiến tranh Đông Dương chng li nhng người Vit Minh. Phái b này không thc hin nhim v như nhng quân nhân chiến đu mà ch giám sát vic s dng các trang thiết b quân s vin tr ca M tr giá 10 triu đô la.

Sau Hip đnh Geneve 1954, quân Pháp rút khi Vit Nam. Đ giúp nhng người Vit chng Cng, chính ph M đã quyết đnh vin tr quân s ca M s chuyn trc tiếp cho chính ph Ngô Đình Dim, khi đó s c vn ti MAAG đã tăng lên đến 740 người. Vin tr quân s ca M tăng nhanh chóng t 50 triu đô la (1959) lên đến 144 triu đô la (1961).

B ch huy Vin tr Quân s Hoa Kỳ ti Vit Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam), viết tt là MACV, được thành lp vào tháng 2/1962, v danh nghĩa là cơ quan ch huy quân s toàn b các lc lượng quân s M ti Vit Nam, nhưng trên thc tế, có quyn hn ch huy v mt quân s ca toàn b các lc lượng quân s ca Hoa Kỳ, Vit Nam Cng hòa và các đng minh ti Nam Vit Nam.

Văn phòng Tùy viên Quân s Hoa Kỳ ti Vit Nam, tên chính thc là Defense Attaché Office (DAO) được Hi đng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ được thành lp tháng 1/1973. Đây là mt cơ quan thng nht ph trách các tuỳ viên quân s Hoa Kỳ ti Vit Nam, đng thi qun lý vic hin din ca quân đi M ti Vit Nam sau khi ngng bn.

(3) Có th nói, ti Vit Nam, hippy ch là mt phong trào có tính cách thi trang trong khi ti M hippy là c mt chiến dch phn chiến qua đ mi hình thc: ca nhc, tư tưởng, li sng… Phong trào Hippy bt đu t năm 1967 vi mt đi hi nhc tr Summer of Love được t chc trong 3 ngày (16, 17 và 18/6/1967) ti Monterey, phía bc tiu bang California, cách San Francisco không xa.

San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair) là bài hát tiêu biu ca đi nhc hi do John Phillips viết và ca sĩ Scott McKenzie trình din vi ca t:

If you're going to San Francisco,
be sure to wear some flowers in your hair...
If you're going to San Francisco,
you're gonna meet some gentle people there

Thành ph San Francisco được xem là cái nôi ca Hippy sau đó lan rng đến các thành ph New York, Los Angeles, Philadelphia, Seattle, Portland, Washington, D.C., Chicago, Miami, Montreal, Toronto, Vancouver, và qua tn Châu Âu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét