Triều Tiên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vị trí Triều Tiên
Triều Tiên (theo cách sử dụng tại
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên:
조선,
Chosǒn) hay
Hàn Quốc (theo cách sử dụng tại
Đại Hàn Dân quốc:
한국,
Hanguk) hay
Korea (theo cách sử dụng quốc tế và có gốc từ "Cao Ly") là một nền văn hóa và khu vực địa lý nằm tại
bán đảo Triều Tiên tại
Đông Á. Khu vực này giáp liền với
Trung Quốc về hướng tây bắc và
Nga về hướng đông bắc, với
Nhật Bản ở đông nam qua
eo biển Triều Tiên. Từ "Triều Tiên" có nghĩa là "(Xứ) Buổi sáng tươi đẹp".
Hiện nay Triều Tiên được chia ra hai chính thể:
Đại Hàn Dân quốc ở phía nam là một nước
dân chủ tự do theo kiểu
phương Tây và
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc là một nước chuyên chính
cộng sản (dân chủ nhân dân).
Là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới, Triều Tiên có lịch sử được ghi chép khoảng 3000 năm. Trong
thế kỷ thứ 4, họ đã bắt đầu dùng hệ thống
Hán tự và chịu ảnh hưởng của
Phật giáo, và nhiều khía cạnh văn hóa khác có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội này. Sau này Triều Tiên đã đem những bước tiến này cũng như những kỹ thuật họ tự khám phá vào Nhật Bản.
Sau khi thống nhất
Tam Quốc vào năm 676, Triều Tiên đã được quản lý bởi một nhà nước và giữ được độc lập về chính trị cũng như văn hóa cho đến khi bị
Mông Cổ xâm lược trong
thế kỷ 13. Trong nhiều thế kỷ, Triều Tiên giữ một mối liên hệ gần gũi với
Trung Quốc, cường quốc trong khu vực này, trong khi đồng thời giữ bản chất của mình.
Nền văn hóa Triều Tiên đã đem lại
máy in đầu tiên,
đồng hồ tự gõ, máy đo lượng nước mưa và tàu chiến bọc
sắt. Văn hóa Triều Tiên đến được tột đỉnh trong
thế kỷ 15, dưới thời
Thế Tông Đại Vương (세종대왕). Sau đó Triều Tiên lao vào cảnh đình trệ vào phần sau của
nhà Triều Tiên (
Joseon), và đến cuối
thế kỷ 19 đã bị các đế quốc dòm ngó.
Năm 1910, Triều Tiên bị Nhật Bản đóng chiếm và trở thành thuộc địa cho đến cuối
Đệ nhị thế chiến.
Hoa Kỳ và
Liên Xô chiếm giữ nước này và lập ra những chính phủ trung thành với tư tưởng của họ, tạo ra tình huống ngày nay.
Tên gọi Triều Tiên
Tranh tường của triều Cao Ly
Tên gọi "Korea" xuất phát từ thời kỳ
Cao Ly trong
lịch sử Triều Tiên, cũng xuất phát từ nước
Cao Cấu Ly. Nay tên gọi "Korea" được quốc tế sử dụng để chỉ đến cả hai nước.
Lịch sử
Đã có bằng chứng khảo cổ cho thấy loài người đã sống trên
bán đảo Triều Tiên khoảng 700.000 năm trước, trong
thời kỳ Hạ Đồ đá cũ. Đồ
gốm Triều Tiên cổ xưa nhất có từ khoảng năm 7000 TCN, và
thời kỳ Đồ đá mới bắt đầu khoảng năm 6000 TCN. Thời kỳ đồ gốm Trất Văn kéo dài từ 3500 TCN đến 2000 TCN.
Cổ Triều Tiên
Theo sự tích
Đàn Quân, Triều Tiên được thành lập năm 2333 TCN. Quốc gia này được biết đến với tên Triều Tiên, thường được gọi là
Cổ Triều Tiên để phân biệt với
nhà Triều Tiên. Các nhà khảo cổ đã khai quật được các đồ tạo tác của Cổ Triều Tiên và các thành cổ khắp Triều Tiên và miền nam
Mãn Châu.
Các tài liệu khảo cổ và sử sách cho biết nó có thể được thành lập từ một liên minh của các thành thành một nhà nước tập trung vào giữa thế kỷ 7 và 4 TCN, khi nó tự xưng là một vương triều và tuyên chiến với
nhà Chu. Năm 108 TCN,
nhà Hán tại
Trung Quốc đã đánh bại Cổ Triều Tiên và lập ra 4 quận tại miền bắc Triều Tiên (kể cả một quận gần
Bình Nhưỡng) và
Mãn Châu chủ yếu để làm tiền đồn buôn bán. Đến 75 TCN, ba trong bốn quận đã bị thất thủ, nhưng còn một quận nằm dưới sự cai trị của nhà Hán cho tới năm 313.
Một quốc gia với tên gọi
Thìn Quốc tồn tại ở miền nam Triều Tiên trước khi Cổ Triều Tiên bị sụp đổ. Tuy rất ít được biết về tổ chức chính trị của quốc gia này, các tạo tác bằng đồng thiếc từ thế kỷ 3 và 2 TCN đã được khai quật trong khu vực.
Tam Hàn, ba liên minh có nguồn gốc từ Thìn, thay nước Thìn. Tại miền bắc, quốc gia
Cao Câu Ly đã thống nhất
Phù Dư,
Ốc Trở và
Đông Uế trong lãnh thổ Cổ Triều Tiên trước kia, và tiêu diệt quận của người Hán vào năm 313.
Tam Quốc
Ba nước
Cao Câu Ly,
Tân La và
Bách Tế (hai nước sau phát sinh từ Tam Hàn) giành quyền với nhau và thâu tính các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực. Tổ chức nhà nước tinh vi được phát triển dưới dạng
Khổng giáo và
Phật giáo.
Cao Cấu Ly là nước mạnh nhất, nhưng luôn giao chiến với
nhà Tùy và
nhà Đường tại Trung Quốc. Trong
thế kỷ thứ 7,
Tùy Dạng Đế đã đem 100 vạn quân qua xâm lấn Cao Câu Ly. Tuy nhiên, người Triều Tiên, dưới sự chỉ huy của tướng
Eulji Mundeok (Ất Chi Văn Đức) đã đánh bại quân Hán. Việc này đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy. Nhà Đường cũng tiếp tục giao chiến với Cao Câu Ly.
Tuy là nước lạc hậu nhất trong lĩnh vực văn hóa trong Tam Quốc,
Tân La có một truyền thống quân sự xung quanh các chiến sĩ được gọi là
hoa lang (
hwarang). Thoạt tiên Tân La sát nhập khối
Già Da (
Gaya), rồi liên minh với nhà Đường để thâu tính Bách Tế và, sau này, Cao Câu Ly. Việc này tạo ra nhà nước thống nhất đầu tiên tại Triều Tiên, thường được gọi là
Tân La Thống nhất.
Bột Hải và Tân La Thống nhất
Tân La cuối cùng đuổi được quân nhà Đường ra khỏi lãnh thổ Cao Câu Ly. Vì lẽ đó, đến
thế kỷ thứ 8, Tân La đã quản lý hầu hết bán đảo Triều Tiên và vì thế được gọi là Tân La Thống nhất. Đến cuối
thế kỷ thứ 9, Tân La Thống nhất sụp đổ và thời
Hậu Tam Quốc bắt đầu.
Sau khi Cao Cấu Ly sụp đổ, tướng
Đại Tộ Vinh (
Dae Joyeong) lãnh đạo quân dân đến khu vực
Cát Lâm của Mãn Châu. Vị tướng này thành lập nước
Bột Hải như nhà nước tiếp kế Cao Cấu Ly và giành lại được khu vực miền bắc bị mất. Cuối cùng, lãnh thổ Bội Hải đã trải dài từ
Tùng Hoa Giang và
Hắc Long Giang ở miền bắc Mãn Châu đến các tỉnh miền bắc Triều Tiên. Trong
thế kỷ thứ 10, Bột Hải đã bị người
Khiết Đan chiếm đóng.
Triều đại Cao Ly (918-1392)
Vương triều
Cao Ly thay thế
Tân La Thống nhất. Nhiều vương thân từ nước Bột Hải cũng tham gia vào quốc gia mới này, có lãnh thổ rộng hơn bán đảo Triều Tiên (xem
Gian Đảo, nay dưới sự quản lý của Trung Quốc). Trong thời kỳ này, luật pháp đã được soạn ra, một hệ thống quan lại cũng ra mắt vào thời điểm này, và
Phật giáo trở thành thịnh hành tại Triều Tiên.
Trong
thế kỷ thứ 10 và
11, Triều Tiên tiếp tục bị người
Nữ Chân và
Khiết Đan tấn công tại biên giới phía bắc. Xung đột giữa các quan lại văn và võ ngày càng tăng khi các quan võ bị hạ thấp địa vị và được trả tiền ít hơn. Việc này khiến nhiều tướng cầm quân kháng cự và một số khác di cư tại nơi khác.
Trong năm 1238, quân
Mông Cổ xâm chiếm Triều Tiên. Sau gần 30 năm kháng chiến, Triều Tiên tiêu tàn và hai nước ký hiệp ước có lợi cho Mông Cổ. Dưới sự điều khiển của Mông Cổ, Cao Ly tham gia vào hai cuộc xâm chiếm Nhật Bản không thành. Trong
thập niên 1340,
Đế quốc Mông Cổ bị nhanh chóng suy sụp vì có xung đột nội bộ. Lúc này Triều Tiên có thể cải cách chính trị mà không bị Mông Cổ quấy rối. Vào thời điểm này, tướng
Lý Thành Quế (
Yi Seong-gye) lập danh cho mình bằng cách đánh đuổi hải tặc Nhật Bản, được gọi là
Uy khấu (giặc lùn), đã cướp bóc từ các tàu lái buôn của Trung Quốc và Triều Tiên và tàn phá bờ biển Triều Tiên.
Triều đại Triều Tiên (1392-1910)
Năm 1392, Ly Thành Quế thành lập
nhà Triều Tiên (
Joseon), dời thủ đô đến Hán Thành (
Hanseong, nay là
Seoul). Trong 200 năm đầu của triều đại này, lãnh thổ miền Bắc được thêm vào, diện tích đất trồng trọt được tăng gấp hai, khoa học và kỹ thuật phát triển, chữ viết mới
Hangul phù hợp với
tiếng Triều Tiên được sáng chế, và nhiều sách vở về giáo dục cơ bản được xuất bản, trong khi hiến pháp và luật pháp được hoàn thành.
Trong cuối
thập niên 1590, Nhật Bản hai lần xâm lăng Triều Tiên nhưng không thành, gây ra nhiều sự tàn phá. Những người xâm lược đốt hết những gì họ không đem về Nhật Bản được và nhiều tạo tác văn hóa bị mất tích. Với sự giúp đỡ của
quân Minh và tàu chiến bọc sắc của đô đốc
Lý Thuấn Thần (
Yi Sunsin), quân Triều Tiên đẩy lùi được quân Nhật.
Tuy thế, sau sự xâm lăng của Nhật Bản, trong
thập niên 1620 và
1630 nhà Triều Tiên không thể kháng cự quân Mãn Châu. Cuối cùng nó phải công nhận
nhà Thanh là triều đại tại
Trung Quốc. Sau đó Triều Tiên được hai thế kỷ hoà bình. Quốc gia này đã cách ly với thế giới bên ngoài vào thời điểm này và được gọi là "Vương triều ẩn dật".
Nhà Triều Tiên được cho là triều đại cai trị lâu dài nhất tại
Đông Á.
Nhật Bản chiếm đóng
Bắt đầu từ đầu
thập niên 1870, Nhật Bản bắt đầu cưỡng bức Triều Tiên ra khỏi khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc và vào khu vực của Nhật. Năm 1895,
Hoàng hậu Minh Thành (
Myeongseong) bị quân Nhật dưới sự chỉ đạo của
Miura Goro ám sát. Sau
Chiến tranh Trung-Nhật và
Chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản giành được ưu thế tại Triều Tiên. Năm 1910, Nhật Bản cưỡng bức Triều Tiên ký
Điều ước Sát nhập Hàn-Nhật.
Sự cai trị của Nhật rất tàn bạo và nhiều người Triều Tiên đã kháng cự, cuối cùng dẫn đến
phong trào đòi độc lập. Phong trào này đã bị Nhật đàn áp dã man và hàng ngàn người đã bị Nhật giết hại.
Trong
Đệ nhị thế chiến, nhiều người Triều Tiên đã bị cưỡng bức hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Nhật. Hàng vạn người đàn ông đã bị bắt đi lính trong quân đội Nhật, trong khi đến 200.000 phụ nữ đã bị cưỡng bức lao động hay làm nô lệ tình dục, được gọi là "úy an phụ" (慰安婦, 위안부). Khoảng 60.000 người Triều Tiên làm việc trong hầm mỏ đã bị thiệt mạng giữa 1939 và 1945, và vô số khác bị dùng làm thí nghiệm cho
Đơn vị 731.
Thái độ bài Nhật vẫn còn mạnh mẽ tại Triều Tiên, đặc biệt là trong thế hệ già, vì họ tin rằng Nhật Bản không tỏ ra hối hận cho những điều sai trái này.
Đất nước chia cắt
Sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chính phủ đế quốc Nhật được thay thế bởi sự hiện diện của
Hoa Kỳ và
Liên Xô. Liên Xô ủng hộ chính quyền miền bắc, đồng thời cũng có quan hệ với
Trung Quốc; Hoa Kỳ có quan hệ gần gũi với chính quyền ở miền nam, giúp đỡ những người có kinh nghiệm dưới thời Nhật lên cầm quyền và đàn áp những người cộng sản. Người Triều Tiên bị chia rẽ: những người tay sai Nhật thiếu sự tín nhiệm của người dân, nhưng họ có nhiều kinh nghiệm và giữ quyền. Chủ nghĩa cộng sản ngày càng thâm nhập vào Triều Tiên và những người Triều Tiên đã từng chiến đấu chống Nhật cùng với Trung Quốc được nhiều quyền lực và danh tiếng.
Chiến tranh Triều Tiên và hy vọng thống nhất
Theo một số nhà khoa học chính trị,
Chiến tranh Triều Tiên là kết quả trực tiếp của
chính sách toàn cầu của
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã ủng hộ những người theo
chủ nghĩa chống cộng, hậu thuẫn quân đội Đại Hàn Dân Quốc, và ảnh hưởng
Liên Hiệp Quốc để ủng hộ quân đội này. Trong năm 1945, sau Đệ nhị thế chiến, Liên Hiệp Quốc dự định tạo ra một chính quyền ủy nhiệm, Hoa Kỳ điều khiển bán đảo này phía nam
vĩ tuyến 38 và Liên Xô điều khiển phía bắc. Tình thế chính trị của
Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến sự hình thành của hai chính phủ.
Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ rời khỏi Hàn Quốc và chỉ để lại một số cố vấn, Bắc Triều Tiên tấn công vào miền nam. Chiến tranh bắt đầu vào tháng 6 năm 1950 và diễn tiến đến năm 1953. Hoa Kỳ hậu thuẫn miền nam và
Trung Quốc hậu thuẫn miền bắc. Hàng triệu người Triều Tiên bị thiệt mạng. Sau ba năm dữ dội, chiến tranh kết thúc với một hiệp ước đình chiến, và ranh giới của hai nước trở lại gần như cũ. Hai nước vẫn chưa ký hiệp ước hòa bình. Cả hai bên đều tuyên bố thống nhất là mục đích cuối của họ.
Từ
thập niên 1990, với chính quyền ở Hàn Quốc ngày càng tự do hơn, cũng như sau cái chết của lãnh tụ cộng sản Bắc Triều Tiên
Kim Nhật Thành, hai bên đã có những bước tiến đến cộng tác, trong các cuộc thi thể thao quốc tế, việc đoàn tụ thân nhân, kinh tế và du lịch.
Gần đây, trong nỗ lực hòa giải, hai quốc gia đã chọn một
Cờ Thống nhất. Trong khi lá cờ này tượng trưng cho Triều Tiên trong các cuộc thi thể thao quốc tế, nó không phải là quốc kỳ của Hàn Quốc hay CHDCND Triều Tiên. Cả hai vẫn dùng quốc kỳ mà họ dùng từ khi nhà nước thành lập năm 1948.
Địa lý
Triều Tiên nằm trên
bán đảo Triều Tiên tại đông bắc
châu Á. Nó có ranh giới với hai quốc gia và ba biển. Ở phía tây bắc,
Áp Lục Giang chia Triều Tiên ra khỏi Trung Quốc và về hướng bắc,
Đồ Môn Giang tách Triều Tiên từ
Nga.
Hoàng Hải nằm tại hướng tây,
biển Hoa Đông ở phía nam, và
Biển Nhật Bản ở hướng đông. Tổng diện tích của Triều tiên là 120,410 km2. Các đảo đáng kể gồm có
Jeju,
Ulleungdo.
Phần phía nam và phía tây của vùng đất lục địa Triều Tiên là những đồng bằng phát triển, trong khi phần phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi. Núi cao nhất Triều Tiên là
núi Bạch Đầu (
Baekdu) (2744 m, Trung Quốc gọi là "núi Trường Bạch"). Biên giới với Trung Quốc chạy qua dãy núi này. Phần kéo dài về phía nam của núi Bạch Đầu là một cao nguyên gọi là cao nguyên
Kaema.
Cao nguyên này chủ yếu được nâng lên vào thời
Đại Tân Sinh và một phần bị bao phủ bởi tro
núi lửa. Về phía nam của Gaema Gowon, nhiều dãy núi kế tiếp toạ lạc dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Triều Tiên. Những dãy núi này được đặt tên là
Baekdudaegan (
Bạch Đầu đại cán). Một số núi quan trọng bao gồm
Sobaeksan (2.184 m),
Baeksan (1.724 m),
Kim Cương sơn (1.638 m),
Seoraksan (1.708 m),
Taebaeksan (1.567 m) và
Jirisan (1.915 m). Có một số núi thấp hơn, những dãy núi thứ hai có hướng gần như vuông góc với hướng núi Baekdudaegan. Chúng phát triển dọc theo đường nối lục địa thời
Đại Trung Sinh và hướng của chúng là tây bắc và tây tây bắc.
Tương phản với những dãy núi cổ trên lục địa, một số đảo quan trọng của Triều Tiên được hình thành bởi các hoạt động núi lửa trong thời Đại Tân Sinh gần đây. Đảo Jeju, tọa lạc xa về phía nam của bán đảo Triều Tiên, là một đảo núi lửa lớn với núi chính là
Hallasan (1950 m). Ulleungdo là đảo núi lửa trên Biển Nhật Bản, mà thành phần có nhiều felsic hơn Jeju. Những đảo núi lửa có xu hướng trẻ hơn đối với các núi di chuyển về phía tây.
Bởi vì những vùng núi có hướng ngả về phần đông của bán đảo, những con sông lớn có xu hướng chảy về phía tây. Hai trường hợp ngoại lệ là
sông Nakdong và sông Seomjin chảy về phía nam. Các con sông quan trọng chảy về phía tây bao gồm
sông Áp Lục,
sông Chongchon,
sông Đại Đồng,
sông Hán,
sông Geum và sông
Yeongsan. Những con sông này làm ngập các đồng bằng và cung cấp một môi trường lý tưởng cho việc trồng lúa.
Phía nam và tây nam bờ biển của bán đảo Triều Tiên là đường bờ biển Lias khá phát triển. Nó được biết đến như là
Dadohae trong tiếng Triều Tiên. Đường bờ biển phức tạp tạo ra những biển ôn hòa và môi trường biển tĩnh lặng cho phép tàu thuyền đi lại an toàn, đánh cá và trồng rong biển. Thêm vào đường bờ biển phức tạp, bờ phía tây của bán đảo Triều Tiên có cường độ
thủy triều rất cao (tại
Incheon, khoảng giữa bờ biển phía tây, nó cao đến 9 m). Những tấm chắn thủy triều lớn đang được phát triển trên bờ biển phía nam và tây của bán đảo Triều Tiên.
Nhân khẩu
- Xem: Nhân khẩu của Hàn Quốc, Nhân khẩu của Bắc Triều Tiên
Triều Tiên được định cư bởi một sắc tộc thuần nhất là người Triều Tiên. Họ sử dụng một
ngôn ngữ riêng là
tiếng Triều Tiên và hệ thống chữ viết đặc thù
hangul.
Sắc tộc thiểu số sinh sống trên bán đảo Triều Tiên có thể kể tới
người Hoa (khoảng gần 20.000) (
[2]) chủ yếu ở Hàn Quốc. Ngoài ra có một vài nhóm cộng đồng người gốc Hoa và gốc Nhật được cho là còn định cư ở phía bắc Triều Tiên
[3]).
Lực lượng lao động nước ngoài ở Hàn Quốc chủ yếu bao gồm những lao động đến từ các nước như
Bangladesh,
Pakistan,
Philippines và
Việt Nam, tổng cộng khoảng hơn nửa triệu. Cũng có thể kể tới hơn 10.000 người
Mỹ,
Úc,
Anh,
Canada,
Ireland làm công tác giảng dạy
tiếng Anh tại đây. Và khoảng 30.000 lính Mỹ đồn trú thường trực trên lãnh thổ Hàn Quốc.
Tổng dân số trên bán đảo Triều Tiên là khoảng 73 triệu người.
Ngôn ngữ
- Xem thêm: Hangul, Chữ số Triều Tiên, Tên Triều Tiên
Văn hóa
Kiến trúc Phật giáo Triều Tiên
- Xem thêm: Kiến trúc Triều Tiên, Nghệ thuật Triều Tiên, Đồ gốm Triều Tiên
Trong các sách Trung Hoa cổ, Triều Tiên được nhắc đến như là "Cẩm tú giang sơn" (
금수강산,
錦繡江山) và "Đông phương lễ nghi chi quốc" (
동방예의지국,
東方禮儀之國). Trong suốt thế kỉ thứ 7 và thứ 8, buôn bán thương mại đường bộ và đường thủy nối Triều Tiên với
Ả Rập Saudi. Xưa nhất là từ năm 845, những thương Ả Rập đề cập Triều Tiên với câu nói "Phía bên kia biển qua khỏi Trung Quốc là một đất nước nhiều đồi núi gọi là
Silla (신라), giàu vàng. Các tín đồ
Hồi giáo từng đặt chân đến đây đã bị đất nước này quyến rũ đến nỗi mà họ ở lại luôn nơi đó và không muốn rời đi."
[1] Theo sử sách Nhật Bản, các học giả Triều Tiên đã giới thiệu kiến thức và kỹ thuật của Trung Quốc, kể
chữ Hán và những tác phẩm kinh điển, như
Luận ngữ, vào Nhật Bản. Vào năm 554, một vương quốc Triều Tiên tên là Bách Tế gửi bác sỹ, chuyên gia dược thảo và làm lịch và thầy tu đến Nhật Bản; và năm 602, một sư Bách Tế tên là
Kwalluk được gửi đi để đem các sách về
thiên văn học, làm
lịch,
địa lý và
tôn giáo.
Những hội hè Triều Tiên thường phô diễn nhiều màu sắc sặc sỡ, được gán cho những ảnh hưởng từ
Mông Cổ: đỏ sáng, vàng và xanh thường đánh dấu những nét truyền thống của Triều Tiên.
[2] Những màu sắc tươi sáng đôi khi được thể hiện ở trang phục truyền thống
hanbok.
Một đặc điểm của văn hóa Triều Tiên là hệ thống tính tuổi. Trẻ vừa sinh ra được xem là một tuổi, vì người Triều Tiên nghĩ thời kỳ mang thai như là một năm cuộc sống của trẻ, và tuổi tác sẽ tăng vào ngày đầu năm thay vì vào ngày kỉ niệm sinh nhật. Do đó, một người sinh ra ngay trước ngày đầu năm mới chỉ được vài ngày tuổi theo cách tính của
phương Tây, nhưng là hai tuổi tại Triều Tiên. Theo đó, tuổi trên giấy tờ của ngườiTriều Tiên (ít nhất là giữa những người Triều Tiên cùng độ tuổi) sẽ nhiều hơn một hoặc hai năm so với tuổi theo cách tính của phương Tây. Tuy nhiên, cách tính của phương Tây đôi khi được áp dụng trong các khái niệm về tuổi hợp pháp, ví dụ, tuổi hợp pháp để mua
rượu hoặc
thuốc lá tại Triều Tiên là 19 được xác định theo cách tính của phương Tây là 18 tuổi.
Hàn Quốc có chung nền văn hoá truyền thống với
CHDCND Triều Tiên. Tuy vậy, văn hoá hiện đại của hai quốc gia này có nhiều điểm lại khác biệt nhau.
Tôn giáo
- Xem chi tiết: Khổng giáo Triều Tiên, Phật giáo Triều Tiên, Thiên chúa giáo ở Triều Tiên
Tác phẩm
Phật tổ và tám vị bồ tát" trên tranh vải từ triều đại Goryeo vào thế kỷ 14.Truyền thống
Khổng giáo đã thống trị ý nghĩ của người Triều Tiên, cùng với các đóng góp của
Phật giáo,
Đạo giáo và
Shaman giáo. Tuy nhiên, từ giữa thế kỉ 20
Cơ Đốc giáo đã cạnh tranh với Phật giáo để trở thành một ảnh hưởng tôn giáo chính ở Nam Triều Tiên, trong khi đó hoạt động tôn giáo bị đàn áp ở Bắc Triều Tiên.
Trong suốt chiều dày lịch sử và nền văn hóa Hàn Quốc, bất chấp bị chia rẽ, ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống của Saman giáo Hàn Quốc, Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo vẫn là một tôn giáo cơ bản của người dân Hàn Quốc, đóng vai trò như một khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa dân tộc. Tất cả các truyền thống này đã cùng tồn tại hòa bình từ hàng trăm năm trước đến nay bất kể xu hướng Âu hóa mạnh mẽ từ phương Tây của quá trình chuyển đổi truyền giáo
Cơ đốc ở miền Nam
[3][4][5] hay áp lực từ chính phủ Cộng sản Juche ở miền Bắc.
[6][7] Theo số liệu thống kê đến năm 2005 do chính phủ Hàn Quốc cung cấp, có khoảng 46% của công dân cho biết không theo tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc chiếm 29,2% dân số (trong số đó là đạo
Tin Lành 18,3%,
Công giáo 10,9%) và 22,8% là Phật tử.
[8] Tại Hàn Quốc có khoảng 45.000 người bản địa theo
Hồi giáo (khoảng 0,09% dân số), bổ sung vào con số 100.000 lao động nước ngoài từ các quốc gia Hồi giáo.
[9] Giáo dục
Người Triều Tiên coi trọng học thức và ưu đãi giáo dục và học hỏi các kinh điển Trung Quốc; những đứa bé
lưỡng ban được giáo dục kỹ bằng
Hán tự. Cho đến thời hiện đại, người Triều Tiên đặt nặng vào địa vị cha truyền con nối. Cho đến
thế kỉ thứ 10, "địa vị cốt lõi" của một người đàn ông (xác định bởi thứ bậc của cha và mẹ anh ta) định ra vị trí xã hội của anh ta và vị trí nào trong nhà nước anh ta được chỉ định. Từ thế kỉ thứ 10 đến hết
thế kỉ 19, vị trí xã hội của cha và mẹ của anh quyết định các kì thi dân sự, nếu có, anh có thể tham dự nhưng không bảo đảm sẽ có được vị trí đó.
Vào tháng 4 năm 2006, Hàn Quốc trở thành nước đầu tiên trên thế giới cung cấp dịch vụ nối mạng
Internet tốc độ cao đến tất cả các trường tiểu học và trung học
[10].
Văn học
Văn học Triều Tiên được ghi lại trước khi
triều đại Joseon kết thúc được gọi là "Cổ điển" hay "Truyền thống". Văn học viết bằng Hán tự ra đời cùng thời điểm khi chữ viết Trung Quốc du nhập vào bán đảo. Vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, các nhà học giả Triều Tiên đã viết thơ theo phong cách cổ điển, phản ánh những tâm lý và trải nghiệm của người Triều Tiên thời gian đó. Văn học cổ điển Triều Tiên có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian truyền thống và những câu chuyện dân gian của bán đảo. Văn học thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
Nho giáo,
Phật giáo và
Đạo giáo.
Văn học hiện đại thường gắn liền với sự phát triển của hệ chữ
hangul, điều này giúp cho việc đọc viết chữ lúc đầu chỉ dành cho tầng lớp
quý tộc sang người dân thường và
phụ nữ. Tuy nhiên, mãi đến nửa sau thế kỷ 19, hangul mới đạt đến vị trí thống trị trong văn học Triều Tiên, đem lại sự phát triển lớn mạnh cho nền vă học này. Điển hình như
Sinsoseol là một tác phẩm tiểu thuyết được viết bằng hangul.
Chiến tranh Triều Tiên khiến văn học phát triển theo chiều hướng xoay quanh những vết thương và sự hỗn loạn của chiến tranh. Phần lớn các tài liệu sau chiến tranh ở Nam Triều Tiên đều đề cập đến cuộc sống hàng ngày của người dân bình thường và sự đấu tranh với nỗi đau quốc gia của họ. Một vấn đề phổ biến khác của thời đại là sự sụp đổ của hệ thống giá trị truyền thống Hàn Quốc.
Ẩm thực
- Xem thêm: Lễ trà Triều Tiên, Món ăn triều đình Triều Tiên
Ẩm thực Triều Tiên có lẽ nổi tiếng nhất với món
kim chi, một món ăn sử dụng quá trình lên men đặc biệt để bảo quản một số loại rau, trong đó phổ biến nhất là
bắp cải. Đây là một loại thực phẩm lành mạnh vì nó cung cấp các
vitamin và
chất dinh dưỡng cần thiết.
Gochujang (một loại nước sốt truyền thống Triều Tiên làm từ ớt đỏ) rất thông dụng, cũng như tương
tiêu (hoặc ớt), là những món điển hình của nền ẩm thực nổi tiếng với vị cay.
Bulgogi (
thịt nướng tẩm sốt, thường là thịt bò),
galbi (xương sườn cắt khúc tẩm gia vị nướng) và món
samgyeopsal (
thịt lợn ở phần bụng) đều là những đặc sản từ thịt phổ biến.
Cá cũng là một thực phẩm phổ biến, vì nó là loại thịt truyền thống mà người Triều Tiên hay dùng. Bữa ăn thường đi kèm với súp hoặc món hầm, chẳng hạn như
galbitang (xương sườn hầm) và
doenjang jjigae (canh súp đậu lên men). Giữa bàn ăn là đủ loại món ăn phụ gọi là
banchan.
Các món ăn phổ biến khác gồm
bibimbap - có nghĩa là "cơm trộn" (cơm trộn với thịt, rau, tương ớt đỏ) và
naengmyeon (mì lạnh). Một món ăn nhanh phổ biến khác là
kimbab, gồm cơm trộn với rau và thịt cuộn trong lớp
rong biển. Tuy ngày càng có nhiều thành phần thức ăn được cuộn trong kimbab nhưng cá dù sống hoặc chín vẫn hiếm khi được sử dụng, có lẽ do nguồn gốc kimbap là một món ăn cầm tay hoặc món ăn nhanh có thể gói lại mang đi, trong khi đó cá có thể nhanh chóng hư hỏng nếu không được đông lạnh.
Mì ăn liền cũng là một loại thức ăn nhẹ rất phổ biến. Người Triều Tiên cũng thích dùng các loại thức ăn từ
pojangmachas (bán dạo trên đường phố), ở đây người ta có thể mua
tteokbokki (bánh gạo và bánh cá với nước sốt gochujang cay), khoai tây chiên mực và khoai lang tẩm.
Soondae là loại một
xúc xích làm bằng mì sợi trong suốt và huyết lợn cũng được rất nhiều người ưa thích.
Ngoài ra, một số món ăn nhẹ phổ biến khác bao gồm
chocopie, bánh tôm,
bbungtigi (bánh gạo giòn) và "
nu lung ji" (cơm cháy nhẹ). Có thể ăn sống nu lung ji hoặc đun với nước để tạo ra một món canh. Nu lung ji cũng có thể được dùng như một món ăn nhanh hay món tráng miệng.
Thể thao
Hàn Quốc là nước chủ nhà trong
Thế vận hội mùa hè 1988 ở
Seoul, giúp thúc đẩy kinh tế nước này thông qua tăng cường du lịch và sự công nhận rộng rãi hơn của thế giới. Vào thời điểm đó,
Bắc Triều Tiên tẩy chay sự kiện đó với lý do là họ không được mời làm nước đồng chủ nhà.
Một đội thống nhất dưới lá
Cờ Thống nhất vào năm 1991 đã thi đấu trong giải Vô địch bóng bàn thế giới lần thứ 41 ở
Chiba,
Nhật Bản và trong Giải bóng đá trẻ thế giới lần thứ 6 ở
Lisboa,
Bồ Đào Nha. Một đội tuyển của toàn bộ Triều Tiên diễu hành dưới Cờ Thống nhất trong lễ khai mạc
Thế vận hội mùa hè 2000 ở
Sydney,
Á vận hội 2002 ở
Busan,
Thế vận hội mùa hè 2004 ở
Athena và
Thế vận hội mùa đông 2006 ở
Torino nhưng thi đấu riêng trong các sự kiện thể thao. Cũng như trong
Á vận hội 2006, các viên chức Hàn Quốc đã công bố rằng cả hai nước sẽ thi đấu trong cùng một đội.
Vào mùa hè năm 2002,
Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 được tổ chức bởi Hàn Quốc và Nhật Bản trên 10 sân vận động của mỗi nước. Tuy nhiên hai nước Triều Tiên thi đấu như hai đội khác nhau. Đã có vài đề nghị là Bắc Triều Tiên nên đứng ra làm chủ nhà cho một hay hai trận, nhưng không có điều gì như thế đã xảy ra. Trong khi Hàn Quốc tự động được vào vòng chung kết vì là nước đồng chủ nhà và đã vào tận bán kết (xếp thứ 4, thua
Thổ Nhĩ Kỳ), Bắc Triều Tiên đã không qua được vòng loại khu vực châu Á (thuộc liên đoàn bóng đá châu Á) và không tham dự vòng chung kết.
Điện ảnh
Điện ảnh bán đảo Triều Tiên là nền
nghệ thuật và
công nghiệp điện ảnh của Triều Tiên (tính cho đến trước năm
1945) và của hai nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên -
Hàn Quốc (kể từ năm
1945 đến nay). Chịu ảnh hưởng từ nhiều biến cố chính trị xảy ra trong suốt thế kỉ 20, từ giai đoạn
Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên,
Chiến tranh Triều Tiên đến giai đoạn chia cắt hai miền từ năm
1953 đến hiện tại, điện ảnh Triều Tiên cũng có nhiều thăng trầm.
Khoa học và kỹ thuật
Chiêm tinh đài, đài quan sát thiên văn xưa nhất tại Đông Á còn tồn tại
Một trong những di tích nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học và kỹ thuật của Triều Tiên là
Chiêm tinh đài (
Cheomseongdae), một đài quan sát thiên văn cao 9 mét xây dựng vào năm 633. Nó phục vụ như là một trong những trạm quan sát thiên văn cổ xưa nhất của thế giới.
Tài liệu được in ấn xưa nhất trên thế giới là một quyển kinh Phật in tại Triều Tiên vào khoảng 750-751. Bản in bằng
kim loại di chuyển được được phát minh ở Triều Tiên vào năm 1232, trước khi
Johann Gutenberg phát triển
bản in chữ bằng kim loại (Cumings 1997: 65). Mặc dù người Triều Tiên sử dụng các khuôn in bằng gỗ vào năm 751, đây là một phát triển đáng kể trong việc in ấn cho phép tiếp tục sử dụng một khuôn in cũ.
Hangul, một trong những ngôn ngữ phiên âm khoa học nhất thế giới, được tạo ra bởi vua
Thế Tông vào năm 1443. Một trong những đồng hồ nước tự động đầu tiên trên thế giới được sáng chế năm 1434 bởi
Chang Yong-sil, người sau này phát triển các loại đồng hồ nước phức tạp hơn với các thiết bị thiên văn, đo nước, đo lượng mưa.
Trong suốt thời đại
nhà Triều Tiên, tơ lụa Triều Tiên được đánh giá cao bởi Trung Quốc và đồ gốm Triều Tiên tráng men xanh có giá trị cao ở Nhật. Người Trung Quốc nghĩ rằng đồ sành sứ Triều Tiên có chất lượng cao, nhưng điều này chỉ đúng cho đến hết triều đại
Cao Ly. Trong suốt giai đoạn này, Triều Tiên đạt được nhiều tiến bộ trong các nghệ thuật và đồ thủ công truyền thống, chẳng hạn như
men sứ trắng,
tơ lụa mịn và
giấy. Cũng trong thời gian này, tàu chiến bọc sắt đầu tiên trên thế giới,
Geobukseon (hay "Tàu con rùa"), được phát minh.
Tuy nhiên, sự ngưng trệ bắt đầu xảy ra trong thời gian sau của triều đại Joseon và Triều Tiên trở nên lạc hậu so với phương Tây.
Ngày nay, Nam Triều Tiên dẫn đầu thế giới với số lượng kết nối mạng
Internet tốc độ cao tính trên đầu người. Nam Triều Tiên cũng là nhà sản xuất lớn các sản phẩm công nghệ cao như
điện thoại di động và
màn ảnh plasma. Nam Triều Tiên cũng chỉ đứng thứ hai trên thế giới trong việc sử dụng các kỹ thuật tiêu thụ mới, chỉ sau
Đài Loan [
http://www.parksassociates.com/press/press_releases/2005/gdl6.html1. Bắc Triều Tiên tiếp tục sử dụng hầu hết các kỹ thuật lạc hậu từ
thập niên 1960 và
thập niên 1970.
Chú thích
Tham khảo
|
Ông John và bà Ann Betar. Ảnh: AP |
Trọng GiápQuân đội của đất nước bí ẩn nhất thế giới
Triều Tiên đang thu hút sự chú ý của quốc tế trước nguy cơ thử hạt nhân và quân đội được lệnh sẵn sàng chiến đấu. Thực tế, 1,2 triệu quân nhân nước này luôn trong tư thế sẵn sàng và thề trung thành với lãnh đạo Kim Jong-un.
> Lo Triều Tiên thử hạt nhân, Hàn Quốc họp khẩn
|
Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un chụp ảnh cùng với các quan chức an ninh xã hội trong một dịp kỷ niệm. Triều Tiên mới đây tuyên bố sẽ tiếp tục tiến hành thử hạt nhân và tên lửa tầm xa, với quyết tâm đối đầu với "kẻ thù truyền kiếp" là Mỹ. |
|
Các binh sĩ Triều Tiên ở đơn vị điều khiển vệ tinh vui mừng bên nhà lãnh đạo sau cuộc phóng tên lửa mang theo vệ tinh lên vũ trụ thành công hôm 12/12 năm ngoái. |
|
Một lính Triều Tiên đứng bảo vệ tên lửa Unha-3 tại Trung tâm Không gian Tangachai-ri trước cuộc phóng tên lửa hồi tháng 4/2012. |
|
Xe quân sự chở tên lửa tham gia lễ duyệt binh hôm 15/4/2012 tại quảng trường Kim Nhật Thành. |
|
Một người lính điều khiển giao thông cho đoàn tàu hỏa chở xe quân dụng chạy từ Bình Nhưỡng đến tỉnh Bắc Pyongan hôm 8/4/2012. |
|
Các quân nhân trong lễ duyệt binh thể hiện sức mạnh quân sự nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố chủ tịch Kim Nhật Thành. |
|
Lính cảnh vệ Triều Tiên đứng nghiêm trang trong lễ tiếp đón ngoại giao tại sân bay hôm 2/5/2012. |
|
Quân nhân Triều Tiên lắng nghe bài phát biểu trong buổi lễ tại sân vận động Kim Nhật Thành hôm 14/4/2012 và thề trung thành với ông Kim Jong-un. |
|
Các quân nhân và quan chức đứng xếp hàng trên sân khấu với màn hình khổng lồ phát hình ảnh của ông Kim hôm 16/4 năm ngoái. |
|
Tướng lĩnh và quan chức cấp cao quân đội trên hàng ghế khán giả. |
|
Các quan chức xả hơi sau buổi lễ có sự tham dự của hàng nghìn quân nhân và có sự xuất hiện của ông Kim Jong-un. |
|
Đoàn quân nhạc nghỉ giải lao bên ngoài sân vận động Kim Nhật Thành hôm 14/4/2012. |
Vũ Hà (Ảnh: AFP)
Bên trong Triều Tiên
Björn Bergman, một nhiếp ảnh gia Thụy Điển, trải qua 9 ngày ở Triều Tiên và ghi lại hình ảnh về cảnh sắc và cuộc sống con người ở đất nước bí ẩn bậc nhất thế giới này.
> Chân dung người Triều Tiên
|
Björn Bergman phải mất đến hai năm để lấy visa và có cơ hội bước chân vào quốc gia Triều Tiên bí ẩn. Ông đi tham quan khắp đất nước này bằng xe buýt du lịch. "Nguyên tắc của tôi khi là nhiếp ảnh gia đó là chụp trước, hỏi sau. Các anh bảo vệ rất khó tính. Tại các khách sạn, chúng tôi được yêu cầu ở yên bên trong và không được phép ra ngoài mà không có hướng dẫn viên. Chúng tôi đã thử ba lần rồi nhưng không lần nào đi được quá ba mét trước khi bị họ gọi quay lại", Björn kể. Trong hình là sông Taedong nhìn từ tháp Chủ thể. |
|
Đường cao tốc 8 làn xe của Triều Tiên hầu như không có mấy phương tiện lưu thông khi Björn chụp bức ảnh này. Con đường kéo dài 160 km từ thủ đô đến biên giới với Hàn Quốc và đã hư hỏng nhiều đoạn. |
|
"Trong suốt chuyến đi của chúng tôi, có ba người bảo vệ không cho chúng tôi chụp bất kỳ bức ảnh nào và luôn hỏi chúng tôi định chụp gì, ví dụ những tượng đài này", ông kể. |
|
"Bọn trẻ và bạn bè tôi nghĩ tôi hoàn toàn điên cuồng khi muốn sang Triều Tiên và họ bảo tôi nên ở nhà. Tuy nhiên, Triều Tiên là một trong những đất nước an toàn nhất cho khách du lịch, theo Liên Hợp Quốc", ông kể tiếp. Trong hình là Bình Nhưỡng vào một sớm sương mù. |
|
"Chuyến đi rất đáng sợ, kinh khủng nhưng cũng tươi đẹp. Chúng tôi không được phép hỏi chuyện người dân địa phương, họ thậm chí còn không nhìn chúng tôi", ông nói. Trong hình là tượng đài Thống nhất ở Bình Nhưỡng. |
|
Hình ảnh đoàn xe tham gia diễu hành quân sự nhân 100 năm ngày sinh Kim Nhật Thành. Björn thêm rằng ông muốn quay lại nơi đây, nhưng ông không chắc họ có cho ông quay lại lần nữa không. |
|
Một nữ nhân viên tại ga tàu điện ngầm Bình Nhưỡng. |
|
Xe điện Đông Âu ở Bình Nhưỡng. |
|
Cổng vào vườn thú Bình Nhưỡng. |
|
Nữ hướng dẫn viên tại Bảo tàng Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc về cuộc chiến tranh Triều Tiên. |
|
Các tòa nhà đang xây dở ở Bình Nhưỡng. |
|
Vùng nông thôn Triều Tiên còn nghèo và lạc hậu. |
|
Một người nông dân ngồi trên xe bò kéo ở Khu Phi quân sự (DMZ). |
Anh Ngọc (Ảnh: Barcroft Media)
Chân dung người Triều Tiên
|
Một bác sĩ tại bệnh viện ở Bình Nhưỡng. |
|
Cô gái làm nghề lái máy xúc. Phụ nữ Triều Tiên không nề hà những việc nặng nhọc và có nhiều bài hát ca ngợi sự mạnh mẽ của họ, nổi bật như bài Cô gái tuấn mã. Video: Cô gái tuấn mã |
|
Chiến sĩ hải quân Triều Tiên. |
|
Cô bán hàng ở cửa hàng bách hóa. |
|
Nhân viên trạm xăng xinh đẹp. |
|
Em học sinh nghiêm trang tại quảng trường Kim Nhật Thành. |
|
Nữ diễn viên trượt băng nghệ thuật say sưa tập luyện. |
Chân dung con người Triều Tiên
|
Nữ xạ thủ trong một buổi tập bắn. |
|
Vận động viên bóng bàn Triều Tiên. |
|
Một thầy giáo đại diện cho giới trí thức. Trên ngực ông có gắn huy hiệu Kim Nhật Thành. |
|
Thiếu niên Triều Tiên rất yêu thích môn bóng rổ. |
|
Một học sinh trong lớp học nhạc cụ dân tộc. |
|
Một sinh viên ôn bài trong vườn trường. |
|
Thủ thư tại trường đại học. |
|
Những người lao động Triều Tiên nổi tiếng vì sự chăm chỉ và quy củ trong khi làm việc. |
Vũ Hà (Ảnh: Xinhua)
Triều Tiên khi không phải ngày lễ
Đường phố Triều Tiên thường ngày nhộn nhịp và vui tươi hơn so với thời điểm cách đây vài năm, nhiều xe hơi sang trọng xuất hiện trên đường, người dân dường như cũng tươi tắn và bớt lam lũ hơn.
> Những bức ảnh hiếm có về nông thôn Triều Tiên
> Triều Tiên qua cửa sổ tàu hỏa
Bộ ảnh dưới đây do bà Stephanie Kleine-Ahlbrandt, giám đốc khu vực Đông Bắc Á của Tổ chức Quản lý Khủng hoảng Quốc tế (ICG), chụp tại Bình Nhưỡng tháng 7 vừa qua.
|
Tác giả bộ ảnh nhận xét Bình Nhưỡng ngày càng sang trọng hơn với sự xuất hiện của nhiều ô tô. |
|
Một trong những khu phố nhộn nhịp nhất Bình Nhưỡng với trạm xe điện công cộng. |
|
Dòng người chen chúc để có được một chỗ trên xe. |
|
Người dân Triều Tiên được huy động phục vụ công ích, sửa lại một đoạn đường. |
|
Khu công viên Nhân dân Nungra nhìn từ trên cao. Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un cùng phu nhân Ri Sol-ju từng có chuyến thị sát đến công viên này tháng trước. |
|
Chiếc xe tải chạy giữa đại lộ bằng nhiên liệu than củi. Những chiếc xe này rất gây ô nhiễm môi trường. |
|
Một cậu bé trên đường đi học. |
|
Ba thành viên trong một gia đình đi dạo, ăn kem, trên đường phố Bình Nhưỡng, bên cạnh một gia đình khác đi picnic trong một ngày chủ nhật. |
|
Các sinh viên chăm chỉ học tập tư tưởng Chủ thể tại Hội trường Nhân dân. |
|
Quang cảnh bình yên ở trung tâm Bình Nhưỡng một ngày tháng 7. |
Vũ Hà (Ảnh: Sohu)
Tàu điện ngầm sâu nhất thế giới ở Triều Tiên
Tuy được coi là nước có nền kinh tế kém phát triển nhưng cơ sở hạ tầng tại Triều Tiên khá tốt, nước này có hệ thống tàu điện ngầm ở độ sâu hơn 100 m dưới lòng đất từ những năm 60 của thế kỷ trước.
> Nhịp sống đời thường ở Bình Nhưỡng
> Nhịp sống qua ô cửa tàu hỏa
Dưới đây là hình ảnh của phóng viên Ed Jones của hãng AFP ghi lại trong thời gian được Triều Tiên mời đến đưa tin về các sự kiện quan trọng của nước này trong tháng 4.
|
Hệ thống tàu điện ngầm ở Bình Nhưỡng được bắt đầu xây dựng vào năm 1966 dưới thời nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành. Đây là hệ thống tàu điện ngầm sâu nhất thế giới với độ sâu tối đa là 200 m dưới lòng đất, độ sâu trung bình cũng lên tới 100 m, một số đoạn đường núi sâu 150 m. |
|
Ở độ sâu như vậy, ngoài chức năng giao thông vận tải, hệ thống tàu điện ngầm còn có thể làm hầm trú ẩn, được thiết kế để đề phòng khả năng chiến tranh có thể xảy ra. |
|
Tuyến đường tàu điện ngầm đầu tiên là tuyến Cheollima Line (Thiên Lý Mã) được khai trương năm 1973. Tuyến thứ hai là tuyến Hyeoksin Line (Đổi mới) thông xe vào ngày Quốc khánh Triều Tiên năm 1975. |
|
Hệ thống hiện nay dài khoảng 24 km với 17 trạm. Trong ảnh là quang cảnh trạm Yongwang ngày 14/4. |
|
Người dân chờ tàu tại trạm Puhung. Người nước ngoài đến Bình Nhưỡng chỉ được đi lại giữa hai ga Yongwang và Puhung. |
|
Một nhân viên giơ biển báo hiệu cho tàu vào ga an toàn. |
|
Nhân viên trên đoàn tàu điện ngầm của Triều Tiên |
|
Quang cảnh trên một toa tàu. Đối với người dân Bình Nhưỡng, đây là một phương tiện giao thông quan trọng vì giá rẻ, hơn nữa, rất ít người có xe máy hay ô tô riêng. |
|
Phong cách trang trí trong sân ga cũng rất đẹp, có những nét giống với ga tàu điện ngầm của Nga và Trung Quốc. |
|
Nữ nhân viên trên sân ga sau khi tàu rời đi. |
|
Em bé cùng mẹ đi lên thang cuốn của hệ thống tàu điện ngầm sâu nhất thế giới. |
Vũ Hà (Ảnh: AFP)
Nhịp sống Triều Tiên qua ô cửa tàu hỏa
Những bức ảnh được chụp qua cửa sổ một đoàn tàu hỏa hé lộ phần nào nhịp sống đời thường ở Triều Tiên, đất nước bí ẩn bậc nhất thế giới.
> 'Thánh địa' bí ẩn của Triều Tiên
> Triều Tiên trước ngày phóng tên lửa
|
Những người dân Triều Tiên đạp xe trên một con đường đất hôm 8/4. Bộ ảnh này được chụp bởi một phóng viên đi trên chuyến tàu từ thủ đô Bình Nhưỡng tới tỉnh Bắc Pyongan, nơi đặt bệ phóng tên lửa Ngân Hà-3 (Unha-3) Tên lửa này sẽ được phóng lên trong vài ngày tới, để đưa vệ tinh Quang Minh Tinh-3 (Kwangmyongsong-3) bay vào quỹ đạo. |
|
Các công nhân Triều Tiên đang cùng nhau kéo một chiếc xe trên con đường đất. Hầu hết địa điểm cụ thể của các bức ảnh trong bộ ảnh được chụp từ cửa sổ chuyến tàu không được tiết lộ. Người chụp bộ ảnh này nằm trong số các phóng viên quốc tế được Triều Tiên cho phép tới xem và tác nghiệp tại khu vực đặt bệ phóng tên lửa Ngân Hà-3. |
|
Những phụ nữ Triều Tiên tại một ngôi làng nhỏ ven đường sắt. |
|
Người đàn ông này đứng nhìn cây cầu đang được xây dựng dọc theo tuyến đường sắt nối thủ đô Bình Nhưỡng và tỉnh Bắc Pyongan. |
|
Một người Triều Tiên đang ngồi vắt vẻo trên cây cột điện ven đường ray để sửa điện. |
|
Một kiểm soát viên Triều Tiên làm nhiệm vụ ven đường sắt. |
|
Một thị trấn nhỏ ven đường ray tàu hỏa. Có thể thấy rõ một ống khói cao vút ở ngay đầu thị trấn. |
|
Các nông dân Triều Tiên đang cùng làm việc trên một cánh đồng. Toàn dân Triều Tiên đang cùng hướng tới dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố chủ tịch Kim Nhật Thành, người sáng lập đất nước. |
|
Người dân Triều T iên dắt xe đạp đi bộ trên một con đường thẳng tắp cắt ngang đường ray tàu hỏa. |
|
Một tòa nhà nằm lẻ loi ven một con đường nhỏ. |
Nhịp sống Triều Tiên qua ô cửa tàu hỏa
|
Di chuyển bằng xe tải có vẻ là một hình thức quen thuộc với nhiều người dân và cả binh sĩ Triều Tiên. |
|
Một người đàn ông Triều Tiên đang rửa xe ôtô. |
|
Những người nông dân Triều Tiên đồng loạt dừng tay và ngước nhìn theo khi đoàn tàu chạy qua một cánh đồng. |
|
Chân dung của cố chủ tịch Kim Nhật Thành (phải) và cố chủ tịch Kim Jong-il trên bức tường ở một khu dân cư ven đường sắt. |
|
Một nữ quân nhân Triều Tiên đang đứng canh tại một chốt gác. |
|
Một kiểm soát viên đang làm nhiệm vụ ven đường ray, phía sau lưng người này là một chiếc xe quân sự và một khẩu pháo. |
|
Các công nhân đang làm việc tại một công trường xây dựng. |
|
Một cảnh sát đứng gác trên một con đường ở thủ đô Bình Nhưỡng giữa dòng người qua lại. |
|
Bức ảnh này được chụp khi đoàn tàu băng qua một cánh đồng. |
|
Hai tiếp viên trên tàu đang phục vụ đồ ăn cho các nhà báo, phóng viên quốc tế. |
Hà Giang (Ảnh: AFP)
Các cơ sở hạt nhân của Triều Tiên
|
Bản đồ mô tả vị trí các lò phản ứng, cơ sở nhiên liệu và nơi thử bom hạt nhân của Triều Tiên. Ảnh: AFP |
|
Hình ảnh vệ tinh cho thấy tổ hợp Yongbyon, một cơ sở hạt nhân quan trọng của Triều Tiên ngày 29/12/2004. Ba năm rưỡi sau thời điểm bức ảnh này được chụp, vào ngày 27/6/2008, Triều Tiên phá hủy tháp làm mát trong tổ hợp Yongbyon. Hành động này được coi là biểu tượng của việc Bình Nhưỡng cam kết với những cuộc đàm phán về vấn đề hạt nhân. Ảnh: Digital Globe |
|
Tháp làm mát trong tổ hợp Yongbyon khi còn nguyên vẹn và khi bị phá hủy năm 2008. Ảnh: AP |
|
Một bức ảnh vệ tinh cho thấy công trình xây dựng lò phản ứng Taechon ngày 3/9/2002. Lò phản ứng này ở vị trí cách không xa tổ hợp hạt nhân Yongbyon về phía tây. Ảnh: Digital Globe |
|
Nhà máy làm giàu uranium ở Pakchon, rất gần lò phản ứng Teachon. Tấm hình này được Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) chụp vào tháng 5/1992. Ảnh: IAEA |
|
Không phải cơ sở hạt nhân nào của Triều Tiên cũng có hình ảnh mô tả rõ ràng. Hình ảnh vệ tinh này được cho là chụp lại khu vực lò phản ứng Sinpo ở phía đông bắc của Triều Tiên. Ảnh: Google |
|
Giống như lò phản ứng Sinpo, cơ sở nhiên liệu Sunchon dù ở rất gần thủ đô Bình Nhưỡng và nhiều cơ sở hạt nhân khác nhưng lại không có hình mô tả chính xác. Bức hình vệ tinh này cho thấy một sân bay quân sự tại Sunchon. Ảnh: Google |
|
Bản đồ này mô tả vị trí của mỏ uranium Pyongsan ở tỉnh Bắc Hwanghae. Uranium tự nhiên được khai thác gần thành phố Pyongsan từ những năm 60 thế kỷ trước. Pyongsan hiện có hai mỏ uranium là Kumdongsan và Kumchon. Một số nguồn tin khẳng định có một cơ sở làm giàu uranium tại thành phố này. Đồ họa: Global Security |
|
Hình ảnh do vệ tinh của Hàn Quốc dựng lại mô tả khu vực Kilju ở đông bắc của Triều Tiên, nơi được cho là địa điểm tiến hành hai cuộc thử nghiệm hạt nhân vào các năm 2006 và 2009. Hình nhỏ góc trái là sơ đồ quy trình một cuộc thử nghiệm hạt nhân, còn hình nhỏ ở góc phải là vị trí của Kilju trên bản đồ Triều Tiên. Cuộc thử hạt nhân của Triều Tiên được đánh giá gây chấn động ngang với một trận động đất mạnh 4,7 độ Richter. Đồ họa: Armybase, FAS, Global Security |
|
Sơ đồ này mô tả quá trình làm giàu uranium và những kết quả khác nhau của quá trình này. Năng lượng hạt nhân được sinh ra từ Uranium 235 (U235), vốn chiếm chỉ 0,7% trong uranium tự nhiên, và phần còn lại là Uranium 238 (U238). Quá trình làm giàu sẽ làm tăng tỷ lệ U235 bằng cách tách nó ra từ U238, thông qua một máy ly tâm. Tỷ lệ U235 được tăng lên thành 4 hoặc 5% là đủ để sản sinh ra nhiên liệu cho các nhà máy điện. Tuy nhiên, khi tỷ lệ U235 được tăng lên mức ít nhất là 90%, đây sẽ là mức đủ để chế tạo ra vũ khí hạt nhân. Đồ họa: Global Security, FAS, AFP |
Nhật Nam
ũ Hà (Theo
LIFE)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét